Năm Ất mùi ( 1775), đánh úp phá được Phú Yên, Nhạc nêu công lên Hoàng Ngũ Phúc, Ngũ Phúc tạm cho làm Tây Sơn hiệu tiên phong tướng quân. Kịp khi Nhạc xưng đế cho làm Long nhương tướng quân, bốn lần cướp Gia Định. Ra trận tất thân đi trước tướng sĩ, hiệu lệnh nghiêm ngặc rõ rang, bộ khúc đều có lòng mến phục cả. Năm Bính ngọ, Nhạc sai làm tiết chế các bộ, đánh úp được Phạm Ngô Cầu, bèn đánh bừa ra Bắc. Từ đây, thế ngày càng lớn lên, không thể ngăn được. Đỗ Thành tự khi bị họ Trịnh xâm chiếm phải lưu lại 3000 đồn binh, 30000 lính thủ, đặt một đại tướng, một phó tướng, một đốc thị, một phó đốc thị. Hoàng Ngũ Phúc chết đi, Bùi Thế Đạt, Phạm Ngô Cầu cùng nối nhau làm trấn thủ, ngang ngược tham nhiễu, rất là thối nát. Phạm Ngô Cầu lại nhút nhát hay ngờ vực, không hợp với phó tướng Hoàng Đình Thể. Nhạc và Huệ nhòm ngó đã lâu, đến đây biết là có thể lấy được. Trước hết sai thuật sĩ đem việc hoạ phúc làm cho Cầu mê hoặc, sai tướng sĩ đặt đàn chay lớn ngày đêm không nghỉ, quân bộ của Huệ qua núi Hải Vân, thủ tướng của họ Trịnh là Hoàng Nghĩa Quyền đánh nhau bị chết, quân thuỷ của Huệ từ của biển vào, hai đường đều tiến lại Cầu nghe tin báo vội vàng từ đàn chạy về mưu đem quân để chống. Nhưng quân lính mỏi mệt đã lâu đều không có lòng chiến đấu. Huệ mật sai Hữu Chỉnh đem thư bóc nến ước với Đình Thể làm nội ứng, mà giả cách đưa lầm đến cho Cầu. Cầu cho là Thể với Chỉnh cùng là môn hạ của Ngũ Phúc, tất không lợi cho mình, trong lòng ngờ vực sợ hãi, riêng tính kế đón hàng, để mong được khỏi chết. Rồi thì quân Huệ chợt đến, quân thuỷ quân bộ đánh giáp lại. Cầu sai Thể ra khỏi thành đón đánh. Thành gần bờ sông, quân ở thuyền của Huệ ngửa trông lên chân thành cao hơn 2 trượng, không thể ngửa lên bắn được, Thể bắn súng lớn chìm 1 chiếc thuyền, quân Huệ hơi lùi. Chợt khi nước sông lên mạnh thuyền sát đến thành, chiếu vào thành mà bắn, rồi cho quân bộ vây các cửa thành. Thể cùng hai con hết sức đánh, chém giết được vài trăm người. Thuốc đạn đều hết, sai người xin ở Cầu, Cầu không cho, Thể cả giận, muốn vào thành giết Cầu trước rồi sau mới ra đánh, thì đã thấy trên thành dựng cờ trắng rồi. Thể lại vây quân đem dao ngắn đánh tiếp, giết được vài mươi người, hai con đều chết ở trận. Thể sức kém, cũng tự đâm cổ chết ở trên bành voi. Huệ đem quân vào thành giết rất dữ, quân miền Bắc ở trong thành vài vạn người đều giết hết cả. Người nào chạy ra ngoài thành, thì dân tranh nhau giết chết. Đốc thị là Nguyễn Trọng Đương cũng chết ở trong đám loạn quân. Cầu trói tay về sai lưng xin hàng, đưa về Quy Nhơn giết đi.
Huệ đã đánh được Ngô Cầu , nhân thế thắng đánh Đông Hải, thủ tướng là Ninh Tốn bỏ thành trốn. Huệ mới sửa sang giới cũ La Hà, muốn chia giới hạn để giữ. Bây giờ, Chỉnh nói với Huệ rằng: tướng quân một lần đem quân đi mà định được Thuận Hoá, uy thanh lừng lẫy đến Bắc Hà. Về đạo hành quân, một là thời, hai là thế, ba là cơ hội, ba đều ấy có thể lợi dụng được, thì đi đến đâu cũng thắng. Nay ở Bắc Hà tướng lười quân kêu, ta nhân thế đại thắng mà lấy, thế gọi là kiêm lấy nước suy yếu, lấy nước đương loạn, coi kinh nước sắp mất. Thời và cơ hội ấy không nên bỏ mất.
Huệ nói: Bắc Hà rất nhiều nhân tài, há nên khinh dị. Chỉnh nói: nhân tài Bắc Hà duy có một mình Chỉnh này thôi, Chỉnh đi rồi là không còn ai nữa, xin quốc công chớ ngờ. Huệ cười nói rằng: người khác không đáng ngờ hoặc ở ông thôi. Chỉnh tái mặt đi, nói từ tạ rằng: Chỉnh cũng tự cử mình là kẻ hèn ngu, để nói quá là Bắc Hà không có nhân tài đó thôi. Huệ lại lấy lời nói khác để an ủi Chỉnh rằng: nước đã lâu vài trăm năm, một sớm cướp mà lấy, người ta gọi quân ấy là quân gì? Chỉnh nói rằng: nay Bắc Hà có để lại cố vương, là việc tai biến đến cực từ xưa đến nay, họ Trịnh tiếng là giúp Chỉnh, kỳ thực là hiếp chế, người nước không theo đã lâu rồi sở dĩ không dám hành động là vì thế mà thôi. Tướng quân nếu lấy tiếng là phù nhà Lê diệt họ Trịnh thì thiên hạ không ai là không hưởng ứng, đấy là cơ hội nghìn năm mới gặp. Huệ nói: người nói rất phải, còn như việc trái mệnh lệnh thì sao? Chỉnh nói: truyện Xuân thu nói rằng: trái mệnh lệnh nhỏ mà được công lớn, thì là có công, trái mệnh có làm gì; huống chi, tướng ở bên ngoài thì mệnh lệnh của vua cũng có việc không chịu theo, ông há không nghe thấy ư? Huệ vốn là người hăng mạnh, được lời Chỉnh nói cả mừng, bèn sai Chỉnh đem quân thuyền vượt biên đi trước, hẹn khi đến sông Vị Hoàng thì đốt lửa khói làm tin. Huệ để Lữ ở lại giữ, đưa thư về báo cho Nhạc biết mà tự thống lĩnh đại đội binh thuyền kế tiếp tiến đi. Chỉnh đi qua Thanh, Nghệ đều sai bộ binh lên bộ, dương to thanh thế, không ai dám chống cự lại. Kịp khi đến sông Vị Hoàng, thủ tướng trông thấy bóng gió sợ chạy tan cả, thu được thóc công một trăm vạn hộc. Bèn đốt lửa lên làm tin. Gặp khi gió Nam thổi mạnh, quân thuyền của Huệ vài trăm, đồng thời chở nhanh như bay, cờ quạt tươi sáng, khí mạnh gấp trăm lần. Phụ lão ở Thanh, Nghệ trông thấy than rằng: cõng rắn cắn gà nhà, Chỉnh thực có tội, nhưng cũng là việc làm không đời nào có.
Huệ đã đến sông Vị Hoàng, thành Thăng Long cả báo động, Trịnh Khải sai Trịnh Tự Quyền đem quân bộ xuống Sơn Nam; Đinh Tích Nhưỡng đem quân thuyền chặn ở sông Lỗ Giang, làm trận chữ nhất, khi ấy, nước lụt mới cạn, Huệ đem lấy 5 chiếc thuyền chiến mông sung ( thuyền che kín bằng da trâu ), tiến đi trước, bày trận sát đến Lỗ Giang. Quân của Nhưỡng tranh nhau bắn súng im lặng không động đậy, kịp đến sáng mới biết thuyền không, thì thuốc đạn đã hết rồi. Binh thuyền của Huệ kéo đến, nhân chiều gió bắn súng, lửa, đạn bay rực trời, tiện ngang cây to. Quân của Tự Quyền tan vỡ trước. Nhưỡng lui giữ Hàm Giang. Trấn thủ Sơn Nam là Đỗ Thế Rận bỏ trốn chạy. Trong triều ngoài nỗi sợ hãi rối loạn, không đâu là không trông hút chạy trốn cả. Quân của lão tướng là Hoàng Phùng Cơ quân bộ đóng ở hồ Vạn Xuân, quân thuỷ đóng ở Thuỷ Ái, Huệ liền đánh phá được, đánh trống reo hò tiến thẳng đến bến Tây Long. Trịnh Khải mặc áo chiến ra trận chỉ huy các quân. Quân Tây Sơn đốt ống phun lửa xông vào trận, quân của Trịnh tan vỡ. Huệ bèn vào thành đóng quân ở trong phủ chúa Trịnh, xuống lệnh chiêu an. Khi ấy là ngày 26 tháng 6.
Trịnh Khải chạy đến Sơn Tây, bị dân nghịch đánh lừa đưa đến chỗ quân của Huệ. Trong khi đi đường Khải tự đâm cổ chết. Huệ vỗ vào xác Khải bảo rằng: đáng tiếc người con trai tốt đẹp này, nếu lúc trước sớm liệu đầu hàng, thì không đến nỗi mất phú quý, tội gì mà phải tự giết hại mình, sai lấy lễ vương chôn tang.
Ngày Huệ vào thành, trước hết sai người đến thông tin vua Lê, xin lấy ngày hôm sau tiến đến yết kiến. Ngày hôm sau Huệ đến đền Vạn Thọ yết kiến. Vua sai nâng dậy, cho ngồi giường riêng, ôn tồn yên uỷ. Huệ thưa rằng: Thần nổi dậy ở Tây Sơn, ngửa trông ơn đức của thánh thượng đã lâu, nhân vì họ Trịnh lấn ác bức bách, cho nên trời mượn tay thần, cất quân đánh một trận diệt đi, đó là nhờ uy đức của bệ hạ mới được như thế. Vua nhún nhường cho là đều công của Huệ cả. Huệ thưa rằng: thần chỉ ở tôn vua giúp nước, không dám kể công lợi. Việc ngày nay toàn là ý trời; tức như nhân chứng thuyền mành, thần có thể dong đi được, đến như nước lụt rút đi gió Nam mạnh lên, há phải sức thần có thể làm được đâu? Đó là trò xui nên cho nhà vui thống nhất bờ cõi. Từ nay dựng đặt giềng mối, yên ổn trong ngoài, thần cũng được chịu phúc. Nhân chỉ vào Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: đây là bề tôi cũ của nhà vui, thần được đến đây cũng là sức của người ấy. Vua nói rằng: Chỉnh được đến đây, cũng là lệnh công tác thành cho. Chỉnh cúi đầu lạy tạ. Thong dong cho uống nước chè rồi lui về. Từ đây tình người đều được yên, triều thần dân dân lại họp đông.
Chỉnh nhân nói với Huệ rằng: Tướng quân lại đây lấy danh nghĩa là tôn vua phù nhà Lê, nên phải thực hành, chứ ngày hôm trước yết kiến riêng, việc chưa minh bạch với thiên hạ, nên chọn ngày triều kiến, để cho người cả nước cùng biết, mới là việc làm chính đại. Huệ theo lời.
Mùa thu tháng 7, ngày mồng bảy, xin vua Lê thiết đại triều ở đền Kính Thiên. Huệ đem tướng sĩ từ cửa Đoan Môn vào làm lễ năm lạy ba lần cúi đầu, tự trình bày về nghĩa diệt họ Trịnh, đem sổ sách quân dân tiến trình và nghe lời xử đoán. Vua Lê nhận lấy, ban chiếu thư thống nhất ở ngoài cửa Đại Hưng. Ngày hôm sau, phong Huệ làm Nguyên suý dực chính phù vận, uy quốc công. Huệ lạy nhận mệnh lệnh rồi, bảo riêng với Chỉnh rằng: ta mang vài vạn quân, một lần đánh mà định được Bắc Hà, một thước đất một người dân, đều là của ta cả. Nếu ta xưng đế xưng vương, có gì là không được, ta sở dĩ nhún – nhường mà không ở vào ngôi đế vương là có lòng hậu với nhà Lê mà thôi. Còn mệnh lệnh phong làm nguyên suý, quốc công đối với ta có thêm lên cái gì, chẳng là lấy tiếng mà không được rang buộc ta ư? Chỉnh biết Huệ không vừa ý, bèn nói với vua Lê đem con gái nhỏ là Ngọc Hân công chúa gả cho. Khi ấy, vua Lê đã mệt nặng, Huệ cưỡng ép xin thiết triều nhận lễ mừng. Ngày hôm sau vua Lê ốm sắp chết, Ngọc Hân mời Huệ vào hỏi thăm, Huệ nói rằng: ta ở xa lại người nước còn chưa tin ta, nếu ta vào chầu hầu, lỡ ra vua mất chẳng hoá ra để cho ta bị tiếng nghi ngờ không thể biện bạch ra được ư? Rồi vua Lê mất, Ngọc Hân vốn không ưa Tự tôn, ngầm đem mật hai việc kể xấu với Huệ, Huệ tin lời Ngọc Hân, muốn hoãn lễ lên ngôi. Cả triều ngờ sợ. Các người họ Tôn Thất đều trách công chúa là làm lỡ việc lớn. Công chúa sợ, về xin với Huệ để lập tự tôn. Huệ nghe cho. Bây giờ Tự tôn là Duy Kỳ lập lên ( Chiêu Thống đế ). Ngày hôm thành phục, Huệ mặc áo tang đứng ở bên tả điện, có một người chấp sự cười trộm, sai đem ra chém ngay. Đến khi phát dẫn, Huệ thân đưa đến bến sông rồi trở về. Huệ lưu lại không bao lâu, Nhạc từ Tây Sơn đến, ở lại mười ngày, Huệ theo Nhạc về miền Nam ( chép rõ truyện Nhạc ). Khi đến Nghệ An, mưu chiếm cứ đất ấy. Nghe tiếng xử sĩ ở La Sơn là Nguyễn Thiếp, đưa thư và lụa để mời ra. Thiếp đến, cho làm Sùng chính thư viện trưởng.
Trước đây, Huệ mưu về miền Nam, không để cho Hữu Chỉnh biết, kịp khi đến Nghệ An, Chỉnh lại theo sau, cố xin đi theo. Huệ nói: nay tướng của họ Trịnh là Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng chưa trừ khử được, Bắc Hà không có ông ở lại đấy không được. Nhân cho 20 lạng vàng, 200 lạng bạc, sai cùng với Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, đô đốc là Vũ Chiêu Viễn đóng đồn ở Hà Trung, Vũ Văn Nhậm đóng đồn ở Đông Hải, để giúp đỡ lẫn nhau. Huệ dặn riêng bọn Duệ rằng: Chỉnh vốn là người trốn đi, đến theo với ta là kẻ giáo giở, không thể tin được. Ta trước muốn mượn tay người bắt giết đi, không ngờ hắn lại trốn chết cùng đi theo đối với nghĩa lại không nỡ bỏ. Nghệ An là quê nhà hắn, nên xét kỹ việc làm của hắn mà phòng bị. Nếu có biến, đưa thư báo ngay cho ta. Bèn dẫn quân về miền Nam. Chỉnh ở Nghệ An, tụ họp bọn hương dũng, ngầm có chí tranh giữ Nghệ An. Gặp khi các bề tôi nhà Lê lại lập Trịnh Bồng làm Án đô vương. Chiêu Thống đế trơ trọi một mình, triệu Chỉnh về để tự vệ. Chỉnh đã đến, Bồng chạy, Chỉnh vì có công cho làm Bình chương quân quốc trọng sự, đại tư đồ, tước là Bằng trung công, mở quân doanh Vũ thành.
Huệ cùng với Nhạc có hiềm khích, Duệ là tướng cũ của Nhạc, ngầm hai lòng với Huệ. Chỉnh đem nhiều vàng lụa hậu kết với Duệ, hẹn nhau mưu bỏ Vũ Chiêu Viễn, giữ lấy Nghệ An, sửa luỹ Hoành Sơn, rạch sông Gianh làm giới hạn, như việc cũ của triều trước. Duệ cũng đưa thư trả lời, thành tích hơi lộ. Nhậm do thám biết, gửi thư báo là có biến. Huệ đương cùng với Nhạc liên binh chống nhau, không bị được, bèn sai Nhậm đi mau đến Nghệ An bắt Duệ và xét ý hướng của Chỉnh. Nhậm được lệnh gấp đường đi mau, đến Hà Trung thì Duệ đã theo đường trên về Quy Nhơn rồi. Bèn điểm binh thu lương, chia đóng đồn các chỗ yếu hại; đưa thư hỏi Chỉnh về có thông nhau với Duệ. Chỉnh đưa thư trả lời biện bạch rõ rang. Nhậm lại lấy lời nói khéo an ủi giải thích, để cho yên tâm.
Năm Đinh mùi ( 1787 ), Chiêu Thống đế sai Lê Duy Yên, bình chương sự là Trần Công Sán ( tiến sĩ, người làng An Vĩ, huyện Đông An ) cấp sự trung là Ngô Nho ( tiến sĩ, người làng Tri Chỉ huyện Phú Xuyên ) mang thư đưa cho Huệ xin lại đất Nghệ An. Huệ giận, sai giam vào ngục. Ngô Văn Sở xin giết đi. Khi ấy, Huệ cùng Nhạc đương đem quân cùng đánh nhau Huệ nhân bảo Văn Kỷ rằng: biến ở trong nhà không thể để cho người ngoài nghe thấy. Nay sứ giả miền Bắc ở đây, cho về thì tiết lậu tình trước, giết đi thì mang tiếng không tốt. Bèn cho về mà sai đô đốc là Vũ Văn Nguyệt đem quân thuyền đưa đến ngoài biển Đan Nhai, làm cho thuyền rò nước vào chìm đi, bọn Sán đều chết. Rồi Huệ cùng Nhạc giảng hoà mà về. Huệ bảo những người ở dưới rằng: Nguyễn Chỉnh là đứa cùng đinh thất nghiệp, ta vẽ mặt vẽ mày cho nó, nay nhởn nhơ ở Bắc Hà, hiệu lệnh một nước, nghiễm nhiên tự ở vào địa vị của Trịnh suý, lại muốn mưu tranh Nghệ An để đối địch với ta, tên ấy mà không giết đi, thì lấy gì hiệu lệnh quân chúng. Lập tức sai Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lĩnh quân ra Nghệ An, theo tiết chế của Nhậm. Quân đi đến Thanh Hoá, trấn thủ Lê Duật lui đóng đồn ở bên bắc sông Trinh Giang, Sở ven núi đi, lẻn sang qua sông Tất Mã đánh úp phía sau quân Duật tan vỡ, Duật bị Sở giết chết. Chỉnh sai thuộc tướng là Nguyễn Như Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ. Khi đi đến Châu Cầu, nghe tin Duật đã chết, muốn dựa núi Tam Điệp làm chỗ vững bền; đi đến sông Giản, thì quân Nhậm đã qua núi Tam Điệp rồi. Thái đón đánh không địch được, chết ở trận; Tốn chạy náu vào nhà dân được khỏi chết.
Chỉnh nghe tin báo cấp, sai con là Hữu Du lĩnh lính cơ ngũ súng đi trước, đến sông Thanh Quyết đắp luỹ cố giữ. Khi ấy trời rét buốt quân lính đều đốt củi ngồi sưởi với nhau. Nhậm sai người ngầm đào thủng luỹ, kê súng vào, trông chỗ nào có lửa thì bắn vào, không phát súng nào là không trúng. Quân của Du sợ chạy tán loạn. Chỉnh ở Bình Vọng nghe thấy tin báo, đêm khuya dẫn quân về thành, trước hết đem vợ con chạy sang Kinh Bắc. Chiêu Thống đế thảng thốt không biết làm thế nào, cũng đem quân quyền qua sông. Gần tối Nhậm vào thành, cho quân đi cướp bóc, Sai bộ thương là Nguyễn Văn Hoà đuổi thoe kịp Chỉnh đánh nhau núi Tam Tầng, Hữu Du hết sức đánh, chết ở trận. Chỉnh ngã ngựa, bị bắt đưa về Thăng Long. Nhậm kể tội của Chỉnh, sai đem sẻo ra từng mảnh. Chiêu Thống đế lánh ở trong núi Bảo Lộc, bèn lấy Sùng Nhượng công họ là Lê là Duy Cận coi việc nước. Ngô Văn Sở không bằng lòng với Nhậm, vu cho là Nhậm làm phản, Huệ giết đi ( Nhậm là con rễ Nhạc ). Lúc trước Huệ tuy sai Nhậm đi, mà lòng vẫn ngờ, mật bảo Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân rằng: Nhậm đi lần này giữ trọng binh, chuyên coi nước lớn việc biến xảy ra, không thể tính trước được, ta đáng lo nghĩ không ở Bắc Hà, mà chỉ ở Nhậm thôi, bọn ngươi nên để ý đấy. Ví như lửa cháy, dập ngay từ lúc mới bùng lên thì dễ. Kịp khi Nhậm nhân thế thắng kéo tràn đi, như vào ấp bỏ không. Nguyễn Hữu Chỉnh đã bị bắt, Chiêu Thống đế ra ở ngoài Kinh Bắc thì Trần Quang Châu, Hoàng Xuân Tú, Sơn Nam thì bọn Nguyễn Viết Khang chiếu theo địa phận đóng giữ. Thân thuộc nhà Lê là Duy Trọng, Duy Lãm thì nổi lên ở Thanh Hoá; Duy Chi thì nổi lên ở Châu Định cùng tiếp ứng với nhau, Có Trần Đình Khôi là người ở Cơ Xá huyện Gia Lâm tự xưng là thiêm sự nhà Lê nói với Nhậm rằng: Bắc Hà tuy thâm oán Chỉnh mà lòng vẫn nhớ nhà Lê chưa thôi. Tự quân ra đi, chưa biết kì nào về. Nay có Sùng Nhượng công là Lê Duy Cận, khi tiên đế còn sống đã lập làm Đông cung; khi biến loạn năm nhâm dần, bị bọn kiêu binh phế đi. Nếu ông lại lập lại, chỉ treo một tờ giấy ở cửa Đại Hưng, thì không đến một ngày các quan văn võ họp lại tất cả, việc trong thiên hạ dễ như trở bàn tay mà thôi. Sĩ gật đầu nghe theo, sai người đón Duy Cận về coi việc nước, ở bên trái tả điện Cần chính. Cho tìm khắp các bề tôi nhà Lê, cũng không một người nào đến cả. Trong kinh gọi rằng: giám nhân lại mục(1).
Sở nói với Nhậm rằng: ta xem bộ mặt Sùng nhượng công như thế thì sai khiến người như thế nào được? Từ xưa đến nay thiên hạ không phải của riêng nhà ai, nếu có thể lấy được thì lấy đi, việc gì lại mượn một đứa hèn hạ ở hàng chợ trông coi việc nước, làm chủ nhân tượng gỗ, ta đóng mãi trong thành lại vì nó làm khách binh lưu ngụ ư? Nhậm nói rằng: lòng người Bắc Hà còn nhớ họ Lê, không thể không tạm theo lòng mong của dân chúng được, bọn ông chỉ biết đánh nhau mạnh thôi, còn việc ấy đã có ta chủ trương. Sở im lặng, lui về bảo Vân Lân rằng: tiết chế khinh người quá lắm, xem nó có tài đức gì, dám đối đãi ta như bọn quân lính. Bèn ngầm trích ra những việc Nhậm đã làm trái phép, cho là sự trạng làm phản, dẫn Lân làm chứng việc ấy, mật sai người bảo với Huệ, Huệ bảo rằng: Vũ Văn Nhậm đáng giết chết thôi, ta vẫn biết nó tất làm phản, nay quả nhiên. Bàn hạ lệnh ra quân, ngày đêm đi gấp hơn mười ngày đã đến Thăng Long, vừa trống canh tư, Nhậm ngủ mệt không biết gì. Huệ vào trong chỗ nằm, sai vũ sĩ là Hoàng Văn Lợi đâm chết, khiêng xác ra sau phủ đường. Đến mờ sáng cho Ngô Văn Sở thay lĩnh quân chúng, vẫn cho Sùng nhượng công là Duy Cận coi việc nước, giữ việc thờ tự nhà Lê, triệu hết mọi bề tôi nhà Lê cho làm quan chức. Có viên thị lan là Ngô Nhậm, người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, đỗ tiến sĩ đời Lê trước, bị tội trốn tránh đến đây mới ra thú, nhờ Trần Văn Kỷ dẫn ra mắt Huệ. Huệ vẫn nghe Nhậm là người có tài, nên coi trọng cho làm thị trung trực học sĩ, bảo Kỷ rằng: đây là người ta lại tạo nên đó. Nhậm cúi đầu lạy tạ. Nhậm nhân dẫn: Nhất là Phan Nhị là Ích, Nguyễn Thế Nhân, Nguyễn Nha, Nguyễn Bá Lan, Nguyễn Du, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tân, Đoàn Nguyễn Tuấn lục tục đến yết kiến. Huệ cho Ích làm thị trung ngự sử, Lịch làm hiệp biện đại học sĩ; còn các người khác đều cho làm quan cả. Quốc sư họ trịnh là Nguyễn Hoản, bình chương Phan Lê Phiên đều lấy cớ là già xin hưu trí; hành tham tụng là Bùi Bích cáo là ốm không chịu làm quan; thiêm đô ngự sử là Nguyễn Huy Trạc uống thuốc độc chết. Các bề tôi nhà Lê hoặc người trốn tránh nơi núi rừng, hoặc người lẫn ở nhà dân, Ngô Nhậm xui Huệ đều bức bách mời đến.
Ninh tốn lúc trước trốn tránh không chịu ra, Huệ bắt em là Hương Công lôi ra chém đi cho Tốn sợ, sau Ninh tốn mới ra, cũng cho làm quan, không được bao lâu vì có bệnh xin về. Bèn lưu nội hầu là Phan Văn Bân, chương phu là Nguyễn Văn Dụng, đô đốc là Nguyễn Văn Tuyết, Hộ bộ là Trần Thuận Ngôn, học sĩ Ngô Nhậm theo Văn Sở giữ thành Thăng Long, đặt tiệc rượu đại hội. Huệ bảo mọi người rằng: Sở và Lân là nanh vuốt của ta, nay đem các việc quân quốc trong cả nước trấn giao cho các ngươi được tuỳ tiện làm việc, nên hội đồng bàn bạc với nhau chứ lấy người mới người cũ mà xem cách nhau, đó là điều ta mong muốn vậy. Lại nói rằng: Lê Chiêu Thống vốn ta lập nên, là người tối tăm hèn nhát, tự chuốc lấy bại vong. Nay đem Sùng nhượng công coi việc nước, sợ sau này Chiêu Thống trở về cùng nhau tranh dành, thành ra tự ta gây nên làm mối loạn, cho nên không thể không lưu tư mã Sở ở lại để giúp được, đợi khi bốn cõi đã dẹp yên, sẽ lập tức triệu về. Trước đây, thành Thăng Long thất thủ, Chiêu Thống đế sai bề tôi hầu cận là Lê Quýnh cùng vài mươi người họ Tôn Thất theo quốc mẫu họ Nguyễn và cung quyến đến Cao Bằng, nương tựa đốc trấn là Nguyễn Công Túc rồi đưa thư chỉ doanh cho Long Bằng yêu cầu tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị mang binh đến cứu viện. Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh nói rằng: sinh việc ở biên giới là việc lớn, lợi hại không nhỏ, xin nên tính kỹ đã. Nghị nói rằng nạn của một nước hàng năm vẫn đưa lễ cống, không thể không cứu được.
Nếu cho là dân mọi rợ xa xôi mà coi cách biệt, thì những nước ở Cửu di bát man tôn thờ Trung Quốc sẽ nhờ vào đâu? Bèn triệu bọn Lê Quýnh đến hỏi sự thể bọn Quýnh nói: họ Lê có nước hơn 300 năm, lấy ân huệ mà cố kết lòng dân, lấy lễ nghĩa mà bồi dưỡng sĩ khí, cho nên tuy có kẻ phản nghịch tiếm thiết, mà lòng người tôn phụng họ Lê vẫn như trước. Chỉ vì họ Trịnh hiếp chế, lòng người tức giận, Tây Sơn nhân đấy lấy danh tiếng phù Lê diệt Trịnh, cho nên người nước không ai chống cự lại, không ngờ Tây Sơn đã đắc chí, càng ngông ngược thân chiếm cả kinh đô của nước, đến nỗi Tự quân ( vua nối ngôi ) phải bỏ chạy ra ngoài, bởi thế người mang bừa, kẻ vác giáo, chỗ này chỗ khác cùng nổi lên, đều xưng là họ Lê, không mưu với nhau mà cùng nói một lời, nếu nhờ được thượng quốc rủ lòng nhân yêu nước nhỏ, đem một toán quân đến tận cõi đất để cứu viện, người trong nước nghe thấy, ai là không phấn khởi, thề quyết chí phục thù, tưởng cũng không đến phí binh lực của thiên triều lắm. Nghị tức thì phái binh bị đạo Tả giang Thanh Hùng Nghiệp hộ quốc mẫu và cung quyến họ Lê đến yên nghỉ ở thành Nam Ninh, rồi dâng biểu đại lược nói: tự tôn của cống thần họ Lê, lệ đáng được nối ngôi, chẳng may nước ấy bị phá diệt, mẹ và vợ tự tôn ấy đến gõ cửa quan kêu xin tình thực đáng thương, Cao tông nước Thanh xem tờ tâu bảo Nội các đại học sĩ là Hoà Thân rằng: Lê Duy Kỳ nước An Nam tuy chưa được phong, nhưng là người đáng được nối ngôi, nay còn ở trong nước, mưu tính lấy lại nước, người trong nước còn có lòng tôn sùng nhớ tiếc nước cũ, cũng có thể làm xong việc được. Nguyễn Huệ cậy mạnh cướp nước, phép không dung thứ được, đã phái quân Quảng Tây đi để điều khiển, nếu vẫn còn ngông ngược như trước thì lập tức đem đại binh bốn mặt hội lại đánh, kể rõ tội để trị. Vậy truyền dụ cho Sĩ Nghị trước hết làm tờ hịch đưa cho nước An Nam để mọi người đều biết cả.
Nghị tức tâu nói: An Nam là đất cũ của Trung Quốc, nếu sau khi lấy lại được nước cho con cháu họ Lê rồi thì nhân thế đem quân đến đóng thủ, thế là làm được cho nhà Lê mà còn được nước An Nam, cùng là hai bên được cả.
Phủ thần là Tôn Vĩnh Thanh dâng sớ kháng cự nói: đương nay họ Lê họ Nguyễn tranh nhau, họ Lê tất bị họ Nguyễn kiêm tính, không gì bằng đóng quân lại không hành động, rồi sau nhân lúc hai bên đều mệt mỏi để đánh lấy, cũng chưa muộn gì. Sau vua nước Thanh theo lời Nghị xin. Vĩnh Thanh cho là không hợp với Nghị, cáo ốm không đi, một mình Nghị vâng chiếu chỉ đem quân Lưỡng Quảng và 2 bộ Vân, Quý 20 vạn quân chia làm 2 đạo, một đạo theo đường Lạng Sơn tiến sang thì Nghị đốc suất; một đạo theo đường Tuyên Quang tiến sang thì tổng binh Quý Châu đốc suất, đều tuân theo Nghị tiết chế. Trước hết sai Nguyễn Huy Túc về tìm chỗ Chiêu Thống đế ở. Trước đây, Chiêu Thống đế ở trong núi Bảo Lộc, khe động gập gềnh lẻn đến Hải Dương, Sơn Nam thu hợp quân ứng nghĩa bị Văn Sở đánh phá ở Ngô Đông, lại vượt biển vào Thanh Hoá, mặc áo thường nhân lẻn về huyện Phượng Nhân ở Kinh Bắc, mật sai bề tôi thân tín là Trần Danh Án, Lê Duy Đàn đi đường tắt sang nước Thanh xin viện trợ. Khi đi đến phủ Thái Bình, nghe tin nước Thanh đã đem quân ra, bèn trở về.
Sĩ Nghị đã đến cửa quan, đưa thư dụ bảo: ai có thể bắt sống được đích thân Nhạc và Huệ giải nộp, là được công đầu, tướng của Tây Sơn là Nguyễn Văn Diệm, Phan Khải Đức giữ Lạng Sơn thấy hịch văn sợ hãi, trong một ngày lính thổ trốn đi quá nửa. Khải Đức đến cửa quan đầu hàng trước. Văn Diệm tự liệu quân mình không chống nổi quân nhiều, bèn trốn đi đêm. Kịp khi Chiêu Thống đế xin quân, Tôn Sĩ Nghị nước Thanh đem quân tới cõi. Ngô Văn Sở mới nghe tin báo, sai bọn văn thần là Nguyễn Nha mang ba đạo bẩm văn của Sùng nhượng công Duy Cận và của thần dân đến quân thứ yêu cầu hoãn quân. Sĩ Nghị khước đi. Sở bèn hội các tướng bàn việc đánh giữ. Ngô Nhậm ban lui giữ núi Tam Điệp, đường thuỷ đường bộ thông nhau, chiếm cứ nơi hiểm để giữ sai người mang thư đi ngay để cáo cấp. Sở mới mật truyền các trấn Thái, Lạng ở Kinh Bắc nói phao lên là hội đắp luỹ đất ở sông Nguyệt Đức, rồi ngầm thu quân kéo về; tư cho các trấn thủ Hải Dương, Sơn Tây hẹn ngày với trấn Sơn Nam Bắc thành sắm sửa các thuyền đợi thuỷ quân đến đều tiến đi khi ấy, việc phân phái đã định vụt có tin báo rằng quân nước Thanh đã vào cửa quan, Sở định dẫn quân lui. Lân nói rằng: quân không có gì nhiều, nước không có gì là lớn, nay cầm quân ở ngoài, giặc đến không đánh mà vội rút lui ngay, thì cần người tướng để làm gì. Bèn dẫn quân qua sông sang bên Bắc, đêm đến bờ bên nam sông Nguyệt Đức, nghe tin quân nước Thanh đã đóng ở núi Tam Điệp, Lân đốc tướng sĩ xông pha trời rét, sang ngang qua sông nhiều người bị chết đuối, người nào vào tới bờ lại bị quân Thanh giết chết, Lân kịp vẫy quân lui, một mình cỡi ngựa chạy về, Sở không biết tin thua, ra lệnh cho các quân nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi; đến núi Tam Điệp chia đóng đồn cố giữ, kịp sai Nguyễn Văn Tuyết ( có chỗ chép là Đinh Công Tuyết ) về cáo cấp, Nghị đã đến Kinh Bắc, Chiêu Thống đế ra đi, đến thẳng bến sông Nhị Hà, quân của Nghị đóng ở trên bãi cát bờ bên Nam, làm cầu phao để tiện đường đi lại. Ngày hôm sau, tuyên phong Chiêu Thống đế làm An Nam quốc vương. Khi ấy là năm Mậu thân ngày 21 tháng 11. Sở đã rút lui, họ Lê lại sai quân đến nơi coi các trấn ở Bắc thành. Các quan văn võ bỏ chạy khi trước, lụt đụt đến đô thành bái yết đều xin Nghị ra quân, Nghị nói rằng: năm đã gần hết, việc gì phải vội vàng, không kịp đánh vội, giặc còn gầy, ta nên nuôi cho nó béo, để nó tự dẫn xác đến để làm thịt. Truyền lệnh cho các quân đóng trại yên nghỉ hẹn đến sang xuân ngày mồng sáu tháng giêng ra quân.
Huệ được tin báo cả mắng rằng: con chó Ngô là hạng gì, lại dám ngông cuồng như vậy? tức thì hạ lệnh cử binh. Các tướng đều xin chính vị hiệu trước, để ràng buộc lòng người. Huệ bèn đắp đàn ở bên nam núi ngự Bình, lấy ngày 25 tháng 11, tự lập lên ngôi hoàng đế, đổi năm đầu là Quang Trung ( 1788); ngay ngày hôm ấy đem cả tướng sĩ, quân thuỷ quân bộ đều tiến đi; ngày 29 đến Nghệ An, đóng quân ở lại hơn 10 ngày, chọn thêm dân Nghệ An, cứ ba đinh lấy một, chia thân binh Thuận, Quảng làm 4 doanh: Tiền, Hậu, Tả, Hữu, mà tân binh ở Nghệ An là Trung quân, quân đắc thắng có hơn 10 vạn người, voi chiến vài trăm thớt, duyệt đại binh ở trấn doanh. Huệ thân cởi voi ra ngoài doanh để uỷ lạo quân lính, bèn hạ lệnh tiến quân đi. Đến ngày 20 tháng 12 đến núi Tam Điệp, Sở và Lân lạy rạp ở bên đường, xin nhận tội, Huệ nói rằng: Bọn ngươi tội đáng chết muôn phần, nhưng nghĩ Bắc Hà mới dẹp yên, lòng người chưa qui phụ, bọn người có thể đem toàn quân để tránh mũi nhọn giặc, trong làm cho khí thế quân lính khuyến khích lên, ngoài làm cho binh giặc thêm kiêu căng, cũng là kế để dụ giặc. Nay hãy tạm cho các ngươi đổi tội lập công, để xem sự báo hiếu sau này. Bèn khao thưởng các tướng sĩ rồi bảo rằng: Nay hãy ăn tết Nguyên đán trước, đợi sang xuân ngày mồng 7, vào thành Thăng Long lại mở yến tiệc bọn các ngươi nhớ lấy lời nói của ta xem là nói dối hay là nói đúng. Bèn truyền lệnh ba quân trực sẵn đợi sai phái. Phái Đại tư mã là Sở, Nội hầu là Lân đem tiền quân làm tiên phong, Hố Hổ Hầu đem hậu quân, Đại đô đốc là Lộc, đô đốc là Tuyết đem tả quân thuỷ sư cũng thuộc vào đấy; vượt biển vào sông Lục Đầu. Tuyết vẫn kinh lược ở Hải Dương để làm ứng tiếp cho đông đạo, Lộc tìm đường đi mau đến các địa phương Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế để ngăn chặn đường về của quân nước Thanh, Đại đô đốc là Bảo, đô đốc là Mưu đem Hữu quân, voi ngựa thuộc vào đây; Mưu đi xuyên ra huyện Chương Đức, lấy đường đi thẳng đến làng Nhân Mục ở huyện Thanh Trì để đánh ngang vào đồn quân của Điền Châu. Bảo chuyên đem quân và voi, do huyện Sơn Minh ra đến làng Đại Áng huyện Thanh Trì, làm ứng tiếp cho Hữu chi, Năm quân đều lạy nghe quân lệnh.
Ngày hôm trừ tịch ( tức ngày 30 tết ), quân sang qua sông Giản Thuỷ, trấn thủ Sơn Nam của nhà Lê là Hoàng Thuỷ Nghĩa quân bị tan vỡ trước. Người lính do thám của nước Thanh ở đồn xa đều bắt giết hết, vì thế cho nên tuyệt không có tin báo về quân kéo đến. Từ cửa ô thành Thăng Long đến xã Hạ Hồi Thượng Phúc, quân nước Thanh đóng liền dặn bảo, đặt súng lớn lên, ngoài đồn ngầm đặt chấn địa lôi, phòng bị rất vững. Năm Kỷ dậu, mùa xuân, nửa đêm ngày mồng ba tháng giêng quân của Huệ đến Hà Nội, mật vây lấy đồn, lấy ống loa của quân truyền gọi, những kẻ ứng lời, đổi nhau dạ, gần đến vài vạn người. Trong đồn run sợ, không phải đánh tự tan vỡ, lấy được hết lương thực và khí giới của quân. Mờ sáng mồng 5, tiến sát đến luỹ Ngọc Hồi, trên luỹ đạn bắn xuống như mưa, Huệ sai chiến sĩ đội ván gỗ để xông vào trận, mà tự thúc voi đốc đằng sau. Khi đã phá được cửa luỹ, đều ném ván gỗ xuống đất, đem dao ngắn chém bừa đi, quân nước Thanh chống chọi không được, tan vỡ chạy ra bốn mặt gặp máy chôn ngầm, lại bị chấn địa lôi nổ ra, chết và bị thương rất nhiều. Quân Tây Sơn đánh trống reo hò tiến đi, liền phá được các đồn Văn Điển, Yên Quyết. Đô đốc nước Thanh là Hứa Thế Hanh, tổng binh là Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đều chết cả. Nghị ở Bãi Cát nghe tin báo, một mình cỡi ngựa chạy về Bắc, tướng sĩ tranh cầu để sang sông, cầu gãy ôm lấy nhau xô nhau lăn xuống sông chết đuối kể đến hàng vạn, nước sông Nhị Hà vì thế chảy không được. Ngày hôm ấy, Huệ dong quân vào thành, áo chiến của Huệ mặc đều bị hơi thuốc súng làm cho biến thành sắc đen sạm. Chiêu Thống đế cũng vội vàng sang sông, theo Sĩ Nghị lên phía Bắc, từ đấy nhà Lê mất. Huệ bèn có cả đất nước An Nam. Sĩ Nghị đã thua, Huệ sai quân đuổi theo đến cửa ải Lạng Sơn, nói phao lên rằng quân qua cửa ải đánh giết không xót người nào, cốt tìm cho được chỗ Chiêu Thống đế ở. Người nước Thanh cả sợ, từ cửa quan trở về mạn Bắc, người già, trẻ con bồng bế nhau chạy, vài trăm dặm tuyệt không có người ở. Quân đạo Vân Quý mới xuống đến Sơn Tây, nghe tin Nghị thua, cũng tìm đường kịp trở về. Vua nước Thanh bèn xuống chỉ lấy các thần là Phúc Khang An thay Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, coi đốc binh mã 9 tỉnh điều khiển 50 vạn quân, định ngày đến cửa Nam Quan, kinh lý việc nước An Nam ( trước kia vua nước Thanh sai Nghị đem quân ra liền có mật dụ, đi chậm chớ mau, trước hết truyền hịch để làm tiên thánh, cho bề tôi cũ nhà Lê về nước, tìm tự tôn họ Lê ra đối địch với Huệ, nếu Huệ lui đi, nhân đấy sai tự tôn họ Lê đuổi theo, rồi đem đại binh nối đến, thì không khó nhọc mà thành công, đấy là thượng sách. Nếu người cả nước, một nửa theo họ Lê, một nửa theo Huệ, mà Huệ không lui quân thì đợi Thuỷ sư Mân, Quản ra biển đánh Thuận Quảng trước rồi đem bộ binh tiến đến thì Huệ trước mặt sau lưng đều phải đối địch, thế tất phải quy phục ta, ta nhân đó để cả hai, cắt từ Thuận, Quảng trở vào Nam để cho Huệ ở, từ Hoan, Ái trở ra Bắc, lại đem phong cho họ Lê; nhân đấy đóng đại binh ở nước ấy, để ở xa mà chế ngự lấy, sau này sẽ có xử trí riêng ). Tới khi Nghị thua chạy về Bắc, sắc thư mang đi bỏ rơi ở đường, Huệ nhặt được bảo Ngô Nhậm rằng: Ta xem sắc thư của vua nước Thanh chẳng qua chỉ coi mạnh yếu để làm hơn kém thôi, việc làm cho nhà Lê còn lại không phải là bản tâm, chỉ mượn đấy làm tiếng mà thực thì mưu tự lợi thôi. Nay sau khi thua tất lấy làm xấu hổ, quyết không cầu hoà; những hai nước đánh nhau cũng không phải là phúc cho dân. Nay chỉ có người nào khéo về giấy tờ mới có thể ngăn được mối binh đao, việc ấy cần ở người chủ trương lấy. Bèn ra lệnh phàm những người nước Thanh đã bị bắt được đều cấp cho lương ăn, chọn đất cho ở yên.
Vừa gặp binh bị đạo Giang Tả là Thanh Hùng Nghiệp đưa thư, đại lược nói: Lê Duy Kỳ bỏ nước trốn đi, Thiên triều quyết không bao giờ lại lấy nước Việt Nam mà không cho nữa, nên nhân ngay trước khi chưa vâng dụ chỉ, sai người gõ cửa quan kêu xin, may ra có thể trông nhờ ơn điển. Huệ được thư ấy, biết người nước Thanh muốn giảng hoà, trong bụng coi khinh. Bèn sai tướng là Hố Hổ Hầu đệ tờ biểu yêu cầu làm vua nước An Nam. Tờ biểu nói: Thần vốn là người dân thường ở Tây Sơn, nhân thời làm việc. Năm Bính Ngọ đem quân diệt họ Trịnh, trả lại nước cho nhà Lê; vua Lê trước chết đi, lại dựng tự tôn là Duy Kỳ nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm bạo các quan và nhân dân trong nước chạy đến nói với thần, xin ra quân trừ loạn. Năm Đinh Mùi thần sai một tiểu tướng đem quân đến hỏi tội những kẻ ở bên tả bên hữu giúp Duy Kỳ làm việc bạo ngược ấy, nhưng Duy Kỳ trông thấy bóng gió đang đêm trốn đi, là tự mình rước lấy sự tai vạ ấy. Năm Mậu Thân, thần tiến đến đô thành, lại uỷ cho con cháu nhà Lê trước là Duy Cận coi việc nước, thần đã sai từng người đến gõ cửa quan, đem hết tình nước để tâu lê, nhưng vì mẹ Duy Kỳ đi trước đến ải Đẩu Áo, tự mình đi xin cứu viện, Tôn Sĩ Nghị lấy là đại thần ở chốn bờ cõi, lại vì có của và sắc đẹp, đem tờ biểu của thần xé ra ném xuống đất lăng mạ làm nhục người xứ giả của thần, ý muốn động chúng rấy quân; thần không biết việc ấy qua là tự Đại hoàng đế sai khiến chăng hay là hoặc ở Sĩ Nghị vì một người đàn bà sai khiến cầu may nên công ở chốn biên cương để cầu lợi lớn chăng? Kể ra, lấy một dải đất ở nơi bãi biển, nhân sĩ giáp binh không địch được một phần trong muôn phần của Trung triều, mà suối sâu ở phía trước, hổ dữ ở phía sau, tình mọi người sợ chết, đều tự hăng hái lên, thần không tránh khỏi lời chê ném chuột(2) mới lấy dân đinh năm ba ấp cùng đi theo. Ngày mồng 5 tháng giêng năm nay tiến đến đô thành mong được ra mắt Sĩ Nghị, hoặc có thể lấy ngọc lụa thay cho giáo mác chuyển binh xe làm hội áo Xiêm chăng? Thế mà quân của Sĩ Nghị lại đón đánh trước vừa mới giao chiến một lần mà quân của Sĩ Nghị đã chạy tan vỡ ra bốn phía, những kẻ chạy trốn ở thôn trang ngoại thành lại bị dân hoàn thành giết chết. Ngày thần vào thành, lập tức cấm chỉ không được giết càn, hết thảy phải đưa đến đô thành, cộng hơn 800 người, thần đã cấp cho lương ăn.
Trộm nghĩ: nước thần từ các đời Đinh, Lê, Lý, Trần đến nay, thời đại có đổi đời, không phải là một họ, họ nào có thể làm phên che ở nước Nam được thì trồng cây nào vun xới cây ấy, chỉ là rất công rất nhân mà thôi. Thần cúi nghĩ rằng: Thề lòng trời làm mệnh lệnh thuận về lẻ tự nhiên mà thôi, xin tha cho thần về tội đối địch với Tôn Sĩ Nghị, thương cho thần về lòng thành mấy phen gõ cửa tâu bày, cho thần làm vua nước An Nam, để có thể thống quản. Thần kính cẩn sai sứ đem cửa khuyết xin làm phiền thần, sửa lễ cống và đem cả nhân khẩu hiện còn nộp trả lại, để bày tỏ lòng rất thành. Kể ra, lấy đường đường Thiên triều so được thua với nước mọi rợ nhỏ mọn, tất phải đánh cho đến cùng, làm nhàm việc cũ, để thoả lòng tham tàn, chắc lòng thánh đế không nỡ thế. Lỡ ra quân đánh triền miên mãi không thôi, thế đến như vậy thật không phải là lòng thần mong muốn, mà cũng không dám biết đến.
Thang Hùng Nghiệp tiếp được biểu ấy cả sợ bảo với sứ thần đưa lại là Hố Hổ Hầu rằng: Đấy không phải là ngày hai quân giao chiến, sao lại nhất vị lấy khí tức giận làm việc như thế? Đặt câu nói ý muốn cầu phong tước ư? Hay là cốt muốn khơi ra mối binh đao ư? Trả lại tờ biểu, không chịu đề bạt lên. Bèn lưu Ngô Văn Sở ở lại giữ Bắc thành bảo Sở rằng: Phàm đấy ta gửi đi triều đình Trung Quốc, chuyên uỷ cho Ngô Nhậm cùng Phan Huy Ích gửi đi hay trả lời lại đều cho phép tuỳ nghi mà xử trí. Việc gì không quân khẩn, bất tất phải bẩm báo làm gì. Bèn dẫn quân về miền Nam. Rồi sau Phúc Khang An đến Việt Tây chuyển ý giảng hoà, đưa thư đem lợi hại thí dụ, Huệ cũng đem vàng lụa thật hậu cầu để làm thành việc cho. Bèn đổi tên Quang Bình, sai cháu ( gọi bằng chú bác ) là Nguyễn Quang Hiển và bồi thần là Vũ Huy Tấn mang phẩm vật tiến cống đến cửa quan gõ cửa khẩn khoản xin vào yết kiến. Vua nước Thanh vui lòng khen ngợi, chuẩn y lời tâu, lại dụ đến sang năm thân tự đến Kinh đô để triều yết. Biểu văn đại lược nói rằng ʽʽ thần nổi lên ở Tây Sơn, bắt đầu có đất Quảng Nam trước, cùng với họ Lê vốn không có danh phận kẻ trên người dưới gì. Năm trước, đã từng sai người đến gõ cửa quan để tâu bày duyên do về việc gây hấn với họ Lê nhưng vì biên thần bác bỏ thư đi, không đề bạt lên. Kịp khi quan quân ra khỏi cửa quan đánh dẹp. Trước ngày tháng giêng năm nay, thần đến thành họ Lê, muốn hỏi Lê Duy Kỳ về cớ kêu xin thiên binh, không ngờ quan quân trông thấy, hăng hái chém giết ngay. Bọn thủ hạ của thần, khó có thể bó tay mà chịu trói; lại gặp cầu ở sông gẫy đứt ra nên quan quân đến nỗi tổn thương Thần sợ hãi không biết chừng nào! Đã nhiều lần sai người gõ cửa quan xin nhận tội, và đưa trả về những quan quân chưa ra khỏi. Về người giết hại viên đề trấn hiện đã đem ra chính pháp rồi. Đáng lẽ thần phải chính mình đến nơi khuyết đình, trần tình xin tội; nhưng vì trong nước mới mắc phải binh đao, tình người chưa yên, kính cẩn sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển theo tờ biểu vào triều yết. Lời trong tờ biểu đều là ý của Phúc Khang An dẫn bảo cả.
Vua nước Thanh xem tờ biểu đẹp lòng khen ngợi, chuẩn cho Quang Hiển đến Kinh đô. Dụ cho Huệ rằng: ngươi tuy tự biết hổ sợ về lỗi kháng cự quan quân, hại tới viên đề trấn, xét ra khó miễn tội được, nếu không thân đến cửa khuyết nhận tội, mà vội cầu phong hiệu thì thiên triều không có thể chế ấy. Ngươi chưa được liệt vào hạng phiên bang, thì những phẩm vật đem cống chưa tiện thu nhận. Nếu muốn đem lòng thành thực nộp phẩm vật hàng phục thì sang năm gặp tiết bát tuần vạn thọ của trẫm, thân tự đến Kinh kêu xin.
Về bọn đề trấn chết trận, nên lập đền thờ ở địa phương An Nam trẫm tất đặc cách gia ơn cho tước vương, con cháu đời đời có thể giữ lấy nước An Nam mãi mãi. Còn như Lê Duy Kỳ là người nhu nhược không có tài năng, bỏ ấn trốn đi, không nỡ gia cho tội giết chết nhưng chỉ cho ở yên tại thành tỉnh Quế Lâm, quyết không có lẽ nhận ngươi vào triều cận mà lại đưa về nước An Nam, để cho làm chi nữa, ngươi không nên ngờ vực điều ấy. Nay đặc biệt cho ngươi một chuỗi ngọc trân châu đeo tay, ngươi nên kính vâng ơn lệnh, để được nhờ ơn lâu dài. Phải nên cố gắng đấy.
Huệ lại dâng biểu tạ, xin đến sang năm vào triều yết. Vua nước Thanh tin lời, tức thì sách phong làm An Nam quốc vương. Ra lệnh cho hậu bộ Quảng Tây là Thành Lâm đi trước. Khi đã đến cửa quan, Huệ nói thác rằng: vượng khí ở thành Thăng Long tiêu hết rồi, xin đến Phú Xuân. Thành Lâm cho là không phải lệ, không chịu đi Phú Xuân. Huệ bàn thác làm có bệnh kéo dài, mới đem cháu gọi bằng cậu là Phạm Công Trị trá mạo làm Huệ để đi, rồi sai đem phương vật tạ ơn. ( Huệ tạ ơn và nói: nhà có mẹ già, cầu xin nhân sâm là thứ để tăng thọ. Vua nước Thanh phát cho một cân nhân sâm Quan Đông của vua dùng chạy ngựa trạm đưa cho. Bài biểu tạ có câu rằng: ʽʽ thần có mẹ có người thân yêu báo đáp nhờ ở công đại tạo ( là trời ) vua là thấy là cha nuôi dạy sinh thành mong đội ơn sâu ʼʼ, vua nước Thanh phê rằng: câu nói ấy đáng khen, trẫm không nỡ không coi người là con ).
Mùa xuân, năm Canh tuất, Phúc Khang An dục Huệ sửa đồ hành trang ( Huệ lại nói thác là mẹ chết xin đem con là Quang Thuỳ thay mình vào triều yết. Khang An không nghe mật sai người đến trên cửa quan dặn bảo cặn kẽ, nếu bất đắc dĩ thì nên lấy người nào hình dạng giống mình để thay ) Huệ bèn lấy Phạm Công Trị đội tên mình, sai bề tôi là Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lỗ, Đỗ Văn Công cùng đi; Ngoài lệ cống lại cống thêm hai thớt voi đực. Ngựa trạm đưa đi khó nhọc dân ven đường lấy làm khổ. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An, tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh cùng đưa đi đến Yên Kinh. Vua nước Thanh muốn nêu khen khác mọi người thưởng cho rất hậu. Đến hành cung Nhiệt Hà, vào chầu ra mắt, làm lễ bảo tất ( ôm lấy đầu gối vua). Vua cầm bút viết bốn chữ đại tự: củng cực quy thành nghĩa là ( chầu vào ngôi sao bắc cực đem lòng thành thực quy phục )(3) và một câu đối: Phiên âm: ʽʽ chúc bổ hiệu tôn thân, vinh sĩ đan thâm tri phất thế. Cận quang ưng sung tích tài kê thanh sư vị tiền văn ʼʼ. Dịch nghĩa: Chúc phúc tỏ lòng tôn thân, giữ mãi tấm son không bỏ mất. Vào chầu nhận được sủng mệnh, xét trong sử trước chưa từng ghi. Và một bài thơ: Phiên âm: Doanh phiên nhập chúc trị thời tuần. Sơ kiến hồn như cực thức thân. Y cố vị văn lai tượng quốc. Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân(4). Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch. Gia hội ư kim miễn thế nhân. Vũ uyển văn tu thuận thiên đạo. Đại thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân.
Dịch nghĩa: Nước phiên mạn biển vào chúc thọ, gặp khi đường đi tuần thú các địa phương,
Mới gặp một lần đầu, hình như quen biết đã lâu,
Từ xưa chưa từng thấy nước nào đem voi đến cống,
Triều đại trước bắt đúc người vàng, là việc đáng khinh bỉ,
Chín đạo thường để yên người ta, đáng trọng nước xa phải 2 lần thay người thông dịch,
Gặp dịp tốt này, nên cố gắng ban ra nhân chính,
Xếp việc võ, sửa việc văn để thuận đạo trời,
Ngôi báu nhà Thanh ta, lâu mãi đến muôn nghìn năm.
Để ban cho Nguyễn Văn Huệ, thưởng cho áo mặc, đồ dùng, cũng như Thân vương; lại thưởng thêm cho một vạn lạng bạc. Tới khi vào bệ kiến từ biệt về nước, vua nước Thanh gọi đến gần bên giường, vỗ vào vai yên uỷ dặn bảo ôn tồn; sai thợ vẽ hình của mình đem cho. Khi về sai đưa cho chữ Phúc và đồ chơi quý báu của vua dùng. Sứ giả đi lại liên nối ở đường. ( Trước đây, Chiêu Thống đế sang nước Thanh em là Duy Chi chiếm cứ địa phương Tuyên Quang, Cao Bằng, nương tựa với thổ tù là Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với các bọn mán ở Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao, Quy Hợp mưu phá thành Nghệ An. Huệ sai đốc trấn Nghệ An là Nguyễn Quang Diệu làm đại tổng quản, đô đốc là Nguyễn Văn Uyên đem 5000 quân tinh binh, theo đường ở miền trên trấn Nghệ An đến đánh. Tháng 6, lấy được Trấn Ninh, diệt được Trịnh Cao, Quy Hợp. Tháng 10 quốc trưởng nước Vạn Tượng bỏ thành chạy, bắt được voi ngựa chiên trống, đuổi dài mãi đến địa giới Xiêm la, chém được tướng bên tả là Phan Dung, bên hữu là Phan Siêu, bèn kéo quân về Bảo Lạc. Lê Duy Chỉ cùng Phúc Tấn, Văn Đồng, thế lực không địch được, đều bị hại. Huệ sai bề tôi là Vũ Vĩnh Thành, Trần Ngọc Thị sang nước Thanh dâng tin thắng trận. Tiếng là kính thuận nhưng thật thì để khoe. Lại xin mở chợ thông thương ở cửa ải Bình Thuỷ trấn Cao Bằng, cửa ải Du Thôn ở trấn Lạng Sơn, rút miễn thuế buôn và lập nhà hàng(5) ở phủ Nam Ninh. Vua nước Thanh đều y cho cả.
Trước kia, 6 châu ở Hưng Hoá, 3 động ở Tuyên Quang, cuối nhà Lê bị thổ ty nước Thanh xâm chiếm, nhiều lần biện bạch mà không thể lấy lại được. Huệ đưa thư cho tổng đốc Lưỡng Quảng xin định rò về cương giới đã định, trả lại thư. Huệ bởi thế hơi không bằng lòng, luyện tập quân lính, làm các hạng thuyền, ngầm có ý nhòm ngó Lưỡng Quảng. Từng bảo với tướng hiệu rằng: Để cho ta sống vài năm nữa chứa uy thế, nuôi khí mạnh, thì ta có sợ gì kẻ kia.
Huệ đã đắc chí, nghiễm nhiên tự xưng là đế, lập Lê Thị Ngọc Hân làm Bắc cung hoàng hậu; con đích là Quang Toản làm thái tử. Cho Nghệ An là ở giữa nước, quê quán tổ tiên ở đấy, bèn đắp thành đất ở dưới núi Kỳ Lân, dựng làm lầu điện, gọi là Trung đô. Đổi thành Thăng Long gọi là Bắc Thành; chia Sơn Nam làm thượng hạ hai trấn ( Hạ trấn đóng ở Vị Hoàng, Thượng trấn dời đóng ở Châu Cầu ). Trấn thì đặt trấn thủ, hiệp trấn: huyện thì đặt Văn gọi là phân tri, Vũ gọi là phân suất và đổi định tên quan. ( Xét quan chế của Nguỵ Tây Sơn không thể xét được; thấy chép ở Dã sử tạp lý, thì có tam công, tam thiếu, đại tùng tể, đại tư đồ, đại tư khấu, đại tư mã, đại tư không, đại tư hội, đại tư lễ, thái uý, ngự uý, đại tổng quản, đại đổng lý, đại đô hội, đai đô đốc, đô đốc, nội hầu, hộ giá, điểm kiểm, chỉ huy sứ, đô ty, đô uý, trung uý, vệ uý, quản quân, tham đốc, tham lĩnh, trung thư sảnh, trung thư lệnh, phụng chính, thị trung, đại học sĩ, hiệp biện đại học sĩ, thị trung ngự sử, 6 bộ thượng thư, tả đồng nghị, hữu đồng nghị, tả phụng nghị, hữu phụng nghị, thị lang tư vụ, hàn lâm, còn nhiều danh loại khác, không thể kể hết được. Quân hiệu thì có 5 quân là Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu và năm chế Tả bật, Hữu bật; các danh hiệu như Kiển thanh, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sách, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị lân, Thị loan). Ra lệnh họp làm sổ đinh, điền, đinh chia làm ba hạng, điền chia làm ba bậc ( 9 tuổi đến 17 tuổi là hạng vị cập cách, 18 tuổi đến 55 tuổi là tráng hạng, 56 tuổi đến 60 tuổi là lão hạng, 61 tuổi trở lên là hạng lão nhiêu. Công điền: nhất đẳng mỗi mẫu lệ nộp thóc 150 bát, nhị đẳng mỗi mẫu 80 bát, tam đẳng mỗi mẫu 50 bát. Tiền tập vật mỗi mẫu 1 tiền: tiền khoán làm kho mỗi mẫu 50 đồng. Từ điền nhất đẳng mỗi mẫu lệ nộp thóc 40 bát, nhị đẳng mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng mỗi mẫu 20 bát, tiền tạp vật như lệ công điền, tiền khoán làm kho 30 đồng ).
Lại cho là từ sông Gianh trở ra Bắc, hộ khẩu phân nhiều ẩn lậu không khai thực, đòi những nhân dân có tên ở sổ họp lại, cấp cho mỗi người một cái bài, gọi là tín bài (Chứa họ tên quán chỉ in ngón tay làm ghi, trong đóng ấn có bốn chữ lớn ʽʽthiên hạ đại tínʼʼ) ai không có bài là dân lậu thuế, cho xung đi làm phu dịch các phong sở, mà bắt tội lý trưởng. Bọn lại dịch nhân thế làm gian, đi ra các nơi để tìm bắt. Có kẻ tiểu nhân phải nấp xuống lỗ để trốn, khổ không biết chừng nào.
Khi ấy, giặc biển tàu ô ở Lưỡng Quảng bị quan nước Thanh đuổi bắt, thế bách phải chạy đến quy phục. Huệ thu nhận những kẻ đầu mục cho làm tổng binh. Lại dung nạp bọn giặc ʽʽ Thiên địa hội ʼʼ nhân lúc sơ hở, lén lút ra vào, đường biển vì thế không thông. Khổn thần nước Thanh cũng sợ là mạnh không hỏi đến cả.
Năm Nhâm tí ( 1792 ), Huệ sai làm tờ biểu đưa sang nước Thanh, xin cầu hôn, để do thám ý vua Thanh, cũng muốn mượn cớ ấy để gây mối binh đao nhưng gặp khi bị ốm không đi được.
Huệ là người tàn ngược vô đạo, lúc mới chiếm cứ được đô thành xâm phạm vào tất cả các lăng liệt thánh. Một hôm về buổi chiều Huệ đang ngồi bỗng nhiên tối măt, thấy một ông bạc đầu từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: cha ông mày sinh ra ở đất nhà vua, đời đời làm dân nhàm vua, mày sao dám phạm đến lăng tẩm, rồi lấy gậy đánh vào trán. Huệ tối sầm mắt lại ngã vật ra một lúc lâu mới tỉnh. Huệ đem lời ấy nói với trung thư là Trần Văn Kỷ. Từ đấy bệnh chuyển nặng lên, bèn triệu trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Quang Diệu về để bàn dời Kinh đô đến Nghệ An. Việc bàn ấy chưa nhất định thì khi ấy Thế tổ ta đã lấy được Gia Định, thu phục lại Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế lừng lẫy lên. Huệ nghe thấy lo buồn, bệnh ngày càng nặng thêm. Triệu bọn Diệu dặn rằng: ta mở mang cõi đất, cả có nước Nam, nay bệnh tất không khỏi, Thái tử tư chất hơi cao, nhưng tuổi hãy còn nhỏ, ngoài có thù nước ở Gia Định. Thái đức ( tức là Nguyễn Nhạc ) thì tuổi già, nhàn rỗi vui chơi cầu yên, không mưu tính đến lo sau. Khi ta chết rồi, nên trong một tháng, làm lạo thảo để chôn táng thôi. Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử sớm thiên đến Vĩnh đô(6), để khống chế thiên hạ. Không thế thì quân ở Gia Định lại , bọn ngươi chết không có đất chôn đấy. Bọn Diệu cùng khóc vâng nhận mệnh lệnh sai giết con ngựa trắng để thề.
Ngày 29 tháng 9, Huệ chết, Huệ tiếm ngôi 5 năm, tuổi mới có 40. Thái tử là Quang Toản nối ngôi nguỵ. Tháng 10, táng ở phía nam sông Hương, nguỵ thuỵ là Thái tổ Vũ hoàng đế. Sai thị trung Đại học sĩ là Ngô Nhậm, Hộ bộ tả đồng nghị là Nguyễn Viết Trực, Hộ bộ tả thị lang là Nguyễn Văn Thái, sang nước Thanh báo tang, nói dối Huệ dặn lại sau khi chết rồi táng ở Tây hồ Bắc thành, ngõ hầu được gần cửa nhà vua để nương tựa, vua nước Thanh tin lời cho tên thuỵ là Trung thần, thân làm một bài thơ để viếng:
Phiên âm: Ngoại bang lệ dĩ khiển bồi thần,
Triển cận tong vô chí kỷ thân,
Nạm khoản tới gia lai ngọc khuyết,
Hoài nghi kham tiếu đại kim nhân,
Thu trung thượng ức y quan túc,
Tất hạ hồn như phụ tử thân,
Thất tự bất năng bãi ai thuật,
Lân kỳ trung khôn xuất trung chân.
Dịch nghĩa: Theo lệ thường thì nước ngoài chỉ sai sứ thần sang triều cống thôi,
Từ trước đến giờ không có nước nào tự bản thân vua nước ấy sang triều yết cả,
Dâng nộp lễ vật đáng khen là tự mình đến tận cửa quan,
Đáng cười cho người đem tượng người đúc vàng là còn có lòng ngờ vực,
Còn nhớ khi giữa mùa thu còn áo mũ chỉnh tề,
Dưới gối coi như cha con thân mật ( mà nay đã chết ),
Trong bài thơ không thể nói hết được sự thương nhớ,
Nhưng thương về có lòng thành thực sự trong bụng tỏ ra.
Lại cho thêm một pho tượng Phật 3.000 lạng bạc, để sửa việc tang ma. Phái cho án sát Quảng Tây là Thành Lâm mang đến mộ giả ở Linh đường, ( thuộc huyện Thanh Trì ) để đọc tế. Bài văn có câu tâu rằng: ʽʽ Chúc phúc ngôi Nam cực, khen lòng trung thành đến tận sân chầu. Thoả phách ở Tây hồ dù hết đời không quên quyến luyến cửa khuyết ʼʼ. Bài thơ viếng ấy khắc vào đá, dựng ở bên tả mộ.
(Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Quyển 30, Truyện Chép Về Ngụy Tây, Bản dịch của Viện Sử Học, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1993, ( tr.503 – tr.530)).
(1) Câu này có lẽ chép lầm.
(2) Ném chuột: truyện Giả Nghị ở Hán thư có chép lời ngạn ngữ nói ʽʽ muốn ném con chuột nhưng kiêng cái đồ để ở chỗ ấy ʼʼ là nói vì con chuột đứng ở gần cái đồ quí, muốn ném chuột sợ vỡ đồ quí nên không ném, huống chi bề tôi ở gần vua.
(3) Nói ví như các ngôi sao chầu cả vào sao Bắc cực, như là các nước chư hầu chầu về thiên tử.
(4) Kim nhân: hình người đúc bằng vàng – triều đại nhà Minh bên Trung Quốc, bắt nhà Lê nước Nam ta mỗi khi tiến cống phải đúc hình người bằng vàng để cống.
(5) Nhà hàng: chỗ lập ra để mua bán những hoá vật về cung cấp cho khách.
(6) Vĩnh đô: thuộc về Nghệ An.