TÂY - SƠN THUẬT - LƯỢC
TÂY - SƠN Nguyễn-Văn-Nhạc, tổ tiên là người huyện Nghi-Xuân, tỉnh Nghệ-An. Niên-hiệu, Dương-Đức, triều Lê chiếm giữ được bảy huyện ( của Chiêm-thành ?) bèn dời dân vào đấy. Từ đó mới sinh ra Nhạc, Nhạc xưa vốn làm biện-lại ở tuần Vân- Đồn, vì thiếu tiền của quan mới trốn làm trộm cướp, thủ-hạ có trên trăm người, cướp phá châu ấp, tướng-quân trấn-thủ không đàn-áp được. Nhạc tự xưng là Thiên-vương, tiếm xưng niên-hiệu là Thái-Đức, lén chiếm giữ thành Quy-Nhơn.
Năm Đinh-dậu ( Cảnh-hưng thứ 38), Nguyễn-Văn-Nhạc với em là Huệ cử binh đánh Kinh-đô Phú-Xuân(1). Vua Hiếu-Định đi biển vào thành Gia-Định tuần thú(2). Hoàng-đế triều ta (Nguyễn) cùng ở chung với Nhạc. Tháng 9 năm ấy Nguyễn-Văn-Nhạc xúc-phạm đến vua, và vua Hiếu-Định băng. Hoàng-đế Nguyễn-Ánh triều ta bèn sang Xiêm-La ở(3). Nhạc có những vùng từ Ải-vân trở về Nam.
Năm Nhâm-dần, Nhạc thu nạp bề tôi của chúa Trịnh đã bỏ trốn là Nguyễn-Hữu- Chỉnh, lúc ấy Nhạc vốn có chí thôn tính đất Thuận-Hoá nhưng không có ai mưu tính công việc ấy. Đến lúc ấy được Chỉnh chạy vào, Nhạc mừng lắm bèn thu-dụng.
Năm Bính-ngọ (Cảnh-hưng thứ 47) tháng 3, Nguyễn-Hữu-Chỉnh trình-bày với Nhạc cơ-hội thích-nghi để lấy Thuận-Hoá, xin phát binh đánh lấy Phú-Xuân, Nhạc nghe theo.
Tháng 4, Nhạc sai em là Huệ, tiết chế các quân thuỷ và bộ, rể là Vũ-Văn-Nhậm làm Tả quân Đô-đốc. Chỉnh làm Hữu quân, nhắm Kinh-đô Phú-Xuân tiến phát.
Tháng 5, quân của Nhạc đánh và lấy được Phú-Xuân, Chỉnh nhân thế khuyên Huệ thừa thắng lấy Kinh-đô Thăng-Long.
Tháng 6, Huệ tiến chiếm Kinh-đô, chúa Trịnh Đoan-Nam-vương là Tùng(4) đánh thua mà chết.
Tháng 7, Huệ giả vờ tôn Hoàng-đế nhà Lê ở điện Kính-thiên và làm lễ triều-yết.
Trong tháng ấy vua Hiến-Tông Vĩnh Hoàng-đế băng.
Tháng 8, Nguyễn-Văn-Nhạc và Huệ trở về Nam, Chỉnh chạy theo Nhạc đến biển Đông. Nhạc không cho Chỉnh trở về Nam, mới cho lưu lại ở Nghệ An. Nhạc và Huệ từ Thăng-Long đến, thì Huệ ở lại thành Phú-Xuân, tiếm xưng là Bắc-bình-Vương. Cháu đầu của vua Lê là Duy-Kỳ lên ngôi Hoàng-đế, đổi niên-hiệu là Chiêu-Thống.
Năm Đinh-vị (năm đầu Chiêu-Thống) Nguyễn-Hữu-Chỉnh lấy binh Nghệ-An đánh đuổi Án-đô Vương Trịnh Bồng.
Vua Lê dùng Nguyễn-Hữu-Chỉnh coi giúp việc nước, phong tước cho Chỉnh làm Bằng quận-công. Mùa đông năm ấy vua Lê sai Ngô-Nho (người ở Tri-Chỉ). Trần-Công-Xán (người ở Yên-Vĩ ), cũng gọi là Lượng, đem lễ vật địa phương cùng quốc thư cho Huệ, nói rằng Nam và Bắc mỗi bên đều giữ lấy cương thổ của mình, không đặng vượt khỏi bổn phận(5). Huệ giận lắm, truyền mật lệnh ném bọn Nho và Công-Xán xuống biển, lại khiến Tiết-chế Nhậm đốc suất bộ quân, Thái-uý Điều đốc sốc suất thuỷ quân, Đô-đốc Đặng-Giản làm tiên phong, nhắm Kinh-đô Thăng-Long tiến phát. Lúc ấy quân nguỵ qua Nghệ-An, triều-đình được thông báo, đầu tiên ở khúc sông quanh khe Vân-sàng cho bày chiến thuyền và súng để chuẩn bị. Đặng-Giản giả vờ không dám tiến lên chỉ ven theo bờ biển ngày đêm giương cờ đánh trống. Quân triều-đình thấy thế khinh dễ. Đặng-Giản mới ra lệnh cho chặt cây ở rừng ven sông, ném xuống sông cho ngăn dòng nước mà xuống, lại lén sai người lặn lội giỏi, thừa ban đêm theo những bè gỗ ấy mà qua sông, rình cho quân triều-đình ngủ say, mới kéo hết thuyền về phía Bắc, trong đồn nguỵ lại phát hiệu lệnh đợi quân qua sông mà đánh giết, thuyền giặc lại nổ súng bắn vào quân triều-đình. Quân triều-đình tan vỡ chạy trốn.
Năm Mậu-thân (Chiêu-thống năm thứ 2 – Thái-Đức năm thứ 10), tháng giêng, quân Tây-Sơn tiến phạm kinh thành Thăng-Long. Vua Lê chạy đi Hải-Dương, quân Tây-Sơn rượt theo, cha con Hữu-Chỉnh đều bị bắt. Huệ cho Vũ-Văn-Nhậm trấn Thăng-Long, Đặng-Giản trấn Thanh-Hoá ( Giản là người ở Lương-Xá, dòng dõi của Đặng-Nghĩa-Huấn).
Vua Lê sai Lê-Quýnh, Trần-Danh-Án phò Hoàng thái-hậu sang nhà Thanh bên Tàu để xin binh tiếp viện.
Mùa hạ, Huệ giết kẻ bề tôi là Vũ-Văn-Nhậm, lúc ấy Nhậm tại trấn, có kẻ tố giác rằng Nhậm lén lộng quyền. Huệ mượn cớ là đi tuần đất Bắc, Nhậm ra lạy chào, Huệ bèn bắt giết đi.
Huệ cho quan Đại Tư-không Ngô-Văn-Sở, quan Nội-hầu Lân trấn Thăng-Long, Huệ từ Thăng-Long trở về.
Mùa thu, Tiến-sĩ nhà Lê là Ngô-Thì-Nhậm ( người ở Tả Thanh-Oai hiệu là Hy-Doãn ), Nguyễn-Gia-Phiền (người ở An-Lũng ), Phan-Huy-Ích ( người ở Thu-Hoạch), Hương-cống Ngô-Vi-Quý ( người ở Tả Thanh-Oai), Đoàn-Nguyên-Tuấn ( người ở Hải-An) cùng đến Phú-Xuân yết kiến Huệ.
Huệ khiến Nhậm giữ từ lịnh ( từ nay về sau những thư trát gửi sang nhà Thanh đều do Ngô-Thì-Nhậm viết ra), khiến Phiền và Ích làm Điện trung Thị Ngự-sử, khiến Quý và Tuấn sang Hàn-lâm viện.
Đoàn Nguyên Tuấn con của Thúc, ở trong làng, gác nhà lên cao mà ở trong vườn hoa, gọi là Phong nguyệt sào ( ổ gió trăng) để ngâm vịnh ở đấy, tự gọi là Sào Ông, dường như cho mình là Sào Phủ vậy. Nay lại quên tình vườn cũ, lại cong gối mà quỳ lạy ở triều-đình của giặc, không gợi hứng với cỏ hoa, lại dựa thân vào Hàn-lâm viện, không còn nhàn rảnh nữa để ngâm vịnh với gió trăng, mà lại nhập vào bộ sứ thần. Tưởng lại tấm thân của Tuấn chưa từng được một ngày nào yên nghỉ ở cái ổ gió trăng của ông ta vậy, thì làm sao mà chẳng phụ lời hẹn ước trước kia ( ông Thuỵ-Nham tặng thơ có câu rằng : Hoa ổ phi cư phụ cổ sào, nghĩa là: ʽʽ Vườn hoa chẳng ở thì phụ ổ gió trăng xưa ʼʼ ).
Mùa đông tháng 11, Huệ tự xưng Hoàng-đế, cải nguyên là Quang-Trung.
Tháng ấy vua Lê dùng quân Mãn-Thanh lấy lại kinh-thành Thăng-Long.
Năm Kỷ-dậu ( Nguyễn-Huệ, niên-hiệu là Quang-Trung thứ 2), tháng giêng, Huệ cản phá quân của Tôn-Sĩ-Nghị nhà Thanh ở Thăng-Long. Vua Lê đi lên phương Bắc.
Huệ dùng mưu kế của Ngô-Thì-Nhậm, khiến Nhậm sang nhà Thanh hối-lộ với các vương thần quan chức ở Nội-các của triều Thanh để ngăn việc tiếp-viện và vội ra lệnh cho cả thiên-hạ thần-dân phải suy-tôn Huệ làm vua, lấy lời suy-tôn ấy, kèm vào tờ biểu để tâu lên vua nhà Thanh. Lúc ấy viên Tham-tụng xưa là Bùi-Huy-Bích mượn cớ có bệnh mù mà không chịu ký tên vào. Huệ khiến ép bức buộc phải lăn dấu tay.
Huệ đặt ở các huyện quan Tả Hữu quản-lý, lại dùng người giàu có và thế-lực ở địa-phương làm huyện-trưởng khiến đốc-suất việc lương thực cho quân-đội. Quan Tả-quản thì coi về việc thưa kiện, quan Hữu-quản thì coi về cơ-đội binh-lính. Vì thế mà cơ-binh trong hạt được đóng đồn ngay trong hạt, mỗi tổng đều có sai một vệ-binh đi tuần thám ban đêm, vì thế mà đạo-tặc đều yên, cửa làng khỏi phải đóng(6).
Nạn đói to, có người vợ dân phải bán mình để lấy tiền nuôi gia đình. [ Đời kể lại rằng ở Hải-Dương có người vợ khá có nhan-sắc, quen gần với đồn Tây-Sơn, viên đồn-trưởng thấy nàng đẹp lòng. Người vợ ấy bèn nói với chồng rằng : Nay vì nạn đói kém, trên thì có cha mẹ, dưới thì có đàn con, không có gì để đủ nuôi-dưỡng, thiếp xin chàng nhận làm anh thiếp để đem thiếp bán cho viên đồn-trưởng. Người chồng bằng lòng, bán vợ được một trăm quan mà mang về, còn vợ thì tự thắt cổ ở trong phòng. Viên đồn-trưởng kinh-hải hỏi người chồng, người chồng mới tình thật thưa, viên đồn-trưởng bảo đi chôn cất và cho luôn số tiền ấy không đòi lại].
LỜI PHÊ BÌNH: Năm đói kém đã khiến người ta đến thế ru ! Tuy nhiên người vợ thà chịu cho thân mình chết chứ không nhẫn cho gia-đình mình chết. Ôi! Cũng gọi là người vợ hiền vậy. Sánh với kẻ có trách nhiệm lo việc trường tồn của quốc gia thì khác xa nhau một trời một vực.
Mùa hạ Ngô-Thì-Nhậm từ nhà Thanh bên Tàu trở về.
Huệ phát thẻ tín-bài là theo kế sách của Ngô-Thì-Nhậm. Tín-bài ấy làm bằng gỗ ngoài có viền bông hoa, trong biên tên họ của người dân lãnh thẻ cùng với tuổi và quê quán, có ký tên đóng dấu, khiến dân lãnh tín-bài ấy ở quan nha. Những kẻ ra đi và buôn bán phải đeo cái thẻ tín-bài ấy ở dưới cổ làm bằng, nếu không có tín-bài thì bọn tà đẳng không đặng thông hành. Việc thi hành phép ấy thật do Ngô-Thì-Nhậm.
Lúc ấy nhân dân sợ oai dữ của Huệ, cùng đưa nhau ra lãnh tín-bài, số dân đinh có hư tăng để nhà nước khống ngự, nhưng ở Tả Thanh-Oai lại khiến dân làng khốn-khổ.
Mùa thu, sứ nhà Thanh là bọn Vương-Phủ-Đường sang sách-phong cho Huệ làm An-Nam Quốc-Vương. Huệ sai bọn Phan-Huy-Ích đi tiếp sứ nhà Thanh.
Nguyễn-Nhạc mất, người con lên nối ngôi, ấy là Tiểu-Triều.
Mùa đông, Huệ sai Ngô-Vi-Quý sung vào sứ bộ sang tạ ơn nhà Thanh.
Năm Canh-tuất ( Nguyễn-Huệ, niên-hiệu Quang-Trung thứ 3), mùa xuân, Huệ thăng Ngô-Thời-Dụng làm Bộ-binh Thượng thư với tước Tinh phái hầu.
Mùa hạ, Huệ sai Điện-trung Thị-Ngự-sử Phan Huy Ích, Công-bộ Đãi-chiếu Thượng-thư Vũ-Duy-Tấn ( đỗ hương-cống triều Lê, người ở Mộ-Trạch) và Hàn-lâm Học-sĩ Đoàn-Nguyễn-Tuấn cùng với Đô-đốc Nguyễn-Hữu-Chấn sang nhà Thanh, lúc ấy vua Càn-Long đã 80 tuổi. Lúc trước vua nhà Thanh có bảo Huệ phải thân hành sang chúc phúc, Huệ cố từ. Bọn Phan-Huy-Ích tâu với Huệ xin quyền biến, Huệ mới giả mạo sai Chẩn đi thay cho mình, và khiến bọn Phan-Huy-Ích đi theo.
Huệ sai Ngô-Thì-Nhậm quản lảnh việc đi sứ, rồi lại gia thêm bực Dực-vận công thần, chuyển sang làm Thị trung Đại học-sĩ Giám tư Kinh-đô Thăng-Long.
Mùa hạ, Ngô-Vi-Quý từ Yên-Kinh trở về. Lúc ấy những Tiến-sĩ của nhà Lê cũ thường thường lấy văn học mà vang tiếng trong đời. Ngô-Thì-Nhậm muốn khiến các vị ấy điều ô-nhục như hắn, mới thưa với Huệ nhử các vị ấy bằng quan-tước, vị nào không đến thì đem binh mà bắt. Bùi-Huy-Bích ở Thịnh-liệt thác bệnh mà từ khước. Ngô-Thì-Nhậm lại lấy thơ gọi Trần-Danh-Án ở Bảo-Triện. Trần Danh Án viết thơ dùng tiếng chó heo mà từ khước với Nhậm. Nhậm thẹn không dám gửi thơ đến nữa. Lê-Huy-Trâm ở Bối-Khê ( làm Cần chính Đại-học-sĩ của quốc-triều lãnh chức Đốc-học các vùng Bắc-Ninh, Cao-Bằng và Lạng-Sơn ), Phạm-Quý-Thích ở Hoa-Đường ( làm Thị-trung Đại-học-sĩ của quốc-triều). Nguyễn-Đường ở Trung-Cần (làm Đốc-học Sơn-Tây), Ngô-Viện ở La-Khê, Nguyễn-Du ở Văn-Xá, Nguyễn-Diên-Dương ở Bảo-Từ ( làm Hiệp-trấn ở Hưng-Hoá của quốc-triều ), Trần-Bá-Lãm ở Vân-Canh ( làm Đốc-học Bắc-Thành), Nguyễn-Gia-Cát ở Xuân-Cầu ( Cát về sau ứng nghĩa-quân yết-kiến đức Cao-hoàng Gia-Long ở Gia-Định, làm Lễ bộ Tả tham-tri, phụng-sứ thăng chức Thượng thư, về sau có xảy ra việc mà phạm tội), Bùi-Dương-Lịch ở An-Toàn ( làm Đốc-học Nghệ-An), Lê-Trọng-Dĩnh ở Đa-Sĩ đều thấy trước mà trốn đi. Quý Thích phú thi có câu:
ʽʽ Tái thiên giao thê lệ,
Tỵ địa các trầm phù ʼʼ.
Nghĩa là : ʽʽ Đầy trời đều nước mắt nước mũi giao hoà,
Ở đất thì đều trốn tránh, kẻ chìm người nỗi ʼʼ.
Huy-Trâm thường tự thề rằng: ʽʽ Nếu không chết thì ẩn trốn trong núi rừng, quyết không chịu làm bầy tôi cho Tây-Sơn ʼʼ. Viện và Trọng-Dĩnh về sau đều bị bắt. Viện phải đem con ra làm tin mới được thả. Còn Dĩnh thì bất đắc dĩ phải ra làm Đốc-học ở Vị- hoàng vài tháng rồi lại thác bệnh mà từ-chức. Những người còn lại như Hoàng-Bình-Chính ở Thổ-Hoàng, Nguyễn-Nha ở Hữu-Thanh-Oai, Nguyễn-Quý-Ban ở Nhơn-Mục đều nhận mệnh-lệnh của Tây-Sơn làm quan vinh-hiển. Chỉ có Nguyễn-Đăng-Sở ở Hương-Triện thì xin làm Tri-huyện. Sở vốn khi trước có cưới một người thiếp của vua Lê, việc gì cũng do nàng ấy sai khiến. Một ngày nọ vợ của Sở đi ra hỏi ông thầy tướng: ʽʽ Như tôi phải phối với bậc quan nào ? ʼʼ Ông thầy tướng nói rằng: ʽʽ Bà phải làm vợ quan tri-huyện, nếu không thế thì bà sẽ chết yểu ʼʼ. Vợ của Sở trở về nói lại với Sở, cho nên Sở cố làm cho được chức tri huyện ấy.
Huệ từ Thăng-Long trở về.
Huệ cho quan Đại-tư-mã Ngô-Văn-Sở, quan Nội-hầu Lân cùng với người con thứ là Thuỳ trấn giữ Thăng-Long, cho Tuyên trấn giữ Thanh-Hoá, cho Đặng-Giản làm Đại-Đô-đốc, coi giữ Đại-thiên hùng binh, sai làm thuốc súng.
Tháng 7, bọn Chẩn đến Yên-Kinh, lúc ấy vua nhà Thanh đi tuần phương Bắc để tránh nóng, cấp báo cho Chẩn và các quan theo hầu phải đến hành cung ở Nhiệt-hà yết-kiến. Vua nhà Thanh ban cho thơ có câu rằng:
ʽʽ Y cổ vị văn lai tượng khuyết.
Thăng triều vãng sự bỉ kim nhân ʼʼ.
Nghĩa là :
ʽʽ Từ xưa chưa nghe nói Vua phương Nam đến cửa thượng khuyết lạy chầu.
Đối với việc đã qua của triều nhà Minh đã mất thì đáng khinh việc đòi cống người bằng vàng ʼʼ.
Huy-Ích có phụng hoạ, được nhà Thanh phê thơ cũng cho là ổn-thoả, được ban thưởng rất hậu, đến khi về Tây-Uyển ở Yên-Kinh, thì được vào yết-kiến luôn mấy mươi ngày. Đến ngày trở về nước của sứ bộ, vua Thanh có tuyên triệu Huy-Ích và Duy-Tấn vào Quang-minh chính đại điện, khiến đứng một bên mà xem ở thềm ngọc, rồi rót rượu cho uống, tin rằng đó là sứ-bộ vinh-hạnh bực nhất ( do ở bài Tinh sà kỷ hành).
Tháng chạp, bọn Chẩn từ Yên-Kinh trở về, đến cầu doanh Huy-Ích nhân té mà bị thương ở chân, bèn dâng biểu cho Huệ xin miễn triều-yết, tạm ở lại để điều-dưỡng.
Năm Tân Hợi ( Nguyễn-Huệ, niên-hiệu Quang-Trung thứ 4); quan Nội-hầu Lân bắt được Tụ là em của vua Lê ở Bảo-Lạc, và giết luôn cả nhà Diễn quận-công. Khi trước Tụ dựa vào Diễn-châu để lo bề khôi-phục. Có kẻ đi tố-cáo với Tư-mã Sở. Tư-mã Sở khiến Nội-hầu dạy Diễn quận-công bắt Tụ mà giết đi. Nội-hầu Lân bèn thác viện mở tiệc rượu. Cha con Diễn quận-công cả thảy năm người đều được ban cho áo cẩm hoa bào và khăn là lụa hồng, đều ngồi mà yến ẩm khi rượu đã say, Nội-hầu Lân làm rớt cái mâm đồng làm hiệu, quân Tây-Sơn bèn bắt cha con Diễn quận-công mà chém. Nhân thế mới đặt trấn Hà-Dương ngay ở đất ấy, để Đô-đốc Viên với 500 binh-sĩ trấn giữ rồi trở về.
Đồn Hà-Dương đêu bị giết sạch vì Tề. Trước thời tai-nạn của Diễn quận-công xảy ra, em của Diễn quận-công là Tề ở ngoài cho nên được thoát, đến lúc ấy Tề họp các binh-lính địa phương vây chặt đồn của Tây-Sơn bắt hết và giết sạch, chỉ có Đô-đốc một mình được chạy về. Đến khi quân Tây-Sơn đến bắt Tề thì Tề đã chạy đi đâu không biết.
Huệ đặt quan Bí-thư, mỗi tháng 6 lần chầu để giảng giải kinh sử. Huệ không có học cho nên không biết thư sách. Một ngày nọ Huệ hỏi quan Bí-thư: ʽʽTrong sách có chép việc gì? ʼʼ - Quan Bí-thư thưa: ʽʽ Sách sử chép sự-tích thiện ác của đế-vương và lý-do hưng phế để đời sau biết mà soi xét răn dè ʼʼ. Huệ nói: ʽʽ Như thế thì từ xưa có ai đánh Tàu không? ʼʼ . Thưa: ʽʽ Nước ta có Trần-Hưng-Đạo đánh quân Tàu ở sông Bạch-Đằng, Lê-Thái-Tổ đánh quân Tàu ở thành Đông-Quan, nhưng đều là đánh chúng tiến sang, chứ chưa có tiến sang Tàu mà đánh chúng ʼʼ . Huệ nói: ʽʽ Ta nay đánh Tàu để người xem ʼʼ . ( quan Bí-thư là người ở Ngọc-Đông, tỉnh Thanh-Hoá, tên họ chưa khảo ra). Huệ xuống sắc-lệnh cho công-viện vá lại chiến-y, rồi lại gởi cho gia-thiếp của các đại-thần cất giữ, hẹn ngày nào đủ hai mươi vạn chiếc áo để ban-cấp cho quân-sĩ thì ngày ấy sẽ đánh Quảng-Tây mà cướp phá. Lúc ấy Huệ vừa vào trong viện để xem xét, có người Thiếp của Thái-uý Điều, họ Hoàng, giả vờ không biết có Huệ ở đấy, nói với đồng bọn: ʽʽ Nay quen thắng mà đánh Tàu, nhưng Tàu thì to mà ta thì bé, nếu rủi không thắng thì mới làm sao? Chẳng bằng cứ trị dân mà hưởng nước, việc gì phải đi tìm ở xa? ʼʼ. Huệ nghe được hét lên nói: ʽʽ Người kia là ai mà dám cản trở việc quân của ta? ʼʼ. Liền sai đưa người thiếp họ Hoàng ấy ném xuống biển. Thế rồi ngài lại hối-hận mà nói: ʽʽ Người kia nói cũng hợp-lý ʼʼ. Huệ liền ra lệnh tha cho. Việc cướp phá nước Tàu bèn dừng lại. ( Người thiếp họ Hoàng là dòng-dõi của viên đại-tướng nhà Lê Hoàng-Nghĩa-Giao).
LỜI PHÊ BÌNH: Nói một lời mà bãi việc binh, cũng là người nhân-đức thay!
Năm Nhâm-tý ( Nguyễn-Huệ, niên-hiệu là Quang-Trung thứ 5) lúc ấy vợ chính của Huệ đã chết. Huệ sai Ngô-Thì-Nhậm đưa thơ sang Tổng-đốc Quảng-Tây để khiến cầu hôn với vua nhà Thanh.
Năm ấy Nguyễn-Huệ mất, tóc của Huệ thì quăn, mặt thì đầy mụt, có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì chế thắng, uy anh-hùng lẫm-liệt, cho nên mới bình-định phương Bắc và dẹp yên phương Nam, hướng tới đâu thì không ai hơn được, tiếm vị làm vua được 5 năm, không lập pháp-lệnh điều-ước, việc thưa kiện điều do miệng ngài phân-xử, tội tù thì phần nhiều dùng đòn mà đánh để trừng-trị ( đòn tục gọi là đùi). Bầy-tôi ở trong hay ở ngoài đều sợ oai của ngài, không dám can tội hối-lộ. Thường ngày Huệ hay sợ đức Cao-hoàng Gia-Long ta, lúc đau nguy cấp, Huệ nói với kẻ bầy-tôi rằng: ʽʽ Hắn sẽ phục quốc được ʼʼ . Hoặc có kẻ thưa rằng: ʽʽ Nếu hắn ra thì bọn hạ-thần xin đánh ʼʼ. Huệ nói rằng: ʽʽ Ngươi chớ cho lời ta là nói láo, nếu hôm nay ta chết, thì ngày mai hắn ắt ra, nếu mai ta chết thì ngày sau hắn ắt ra. Ngươi còn sống, ngươi xem ʼʼ .
Nói thế Huệ liền mất. Con là Trát nối ngôi, đại-xá tội phạm và cải-nguyên ( Trát môi trớt, răng to).
LUẬN RẰNG : Với tư chất nhỏ bé yếu đuối và đương tình thế nguy-hại ấy, trong thì có Khang-công và Tuyên-công, nhu-nhược một hai người lẻ-loi non-nớt, ngoài thì có Từ-đồ ( tên Dũng ) và Thiếu phó ( tên Diệu ), dũng mãnh năm sáu vị vũ phu, Trát lại tranh thắng với Cao-hoàng Gia-Long ta, thì hắn sẽ bị trói ngay trước mặt mà làm tù thì đáng lắm.
Năm Quý-sửu, ( Trát, niên-hiệu Cảnh-thịnh năm đầu ), Trát đến Thăng-Long để nhận cho nhà Thanh sách-phong, lúc ấy sứ nhà Thanh xin đến Phú-Xuân, Trát giả mạo xây cung mộ ở xã Hạ-Hồi rồi nói dối là đường từ Sơn-Tây mà đi thì phải một tháng. Đi được nửa đường, sứ nhà Thanh nói rằng: ʽʽ Đây là đi về phía Tây, sao lại dối ta? ʼʼ. Bèn trở về Thăng-Long làm lễ phong-điếu.
Trát trở về Nam, tấn công thành Quy-Nhơn bắt Tiểu-Triều và giết ngay trong ngày hôm ấy.
Năm Giáp-dần ( Trát, niên-hiệu Cảnh-thịnh thứ 2) Cao-hoàng Gia-Long đem quân Hà-Lang ( Hoà-Lan) trở về đánh phủ Diên Khánh và thắng được.
Tướng giữ thành của Trát là Quyền quận-công đem đội thuỷ-quân đầu bên ta, rồi phóng lửa đốt thuỷ-đồn của Tây-Sơn.
Cao-hoàng thừa thắng lấy thành Quy-Nhơn và thành Hoàng-đế.
Có kẻ hỏi rằng : Vua Lê dùng quân nhà Thanh, còn Cao-hoàng-đế ta thì dùng quân người Âu, đều là dựa vào sự giúp-đỡ của nước ngoài, mà Lê thì mất mà ta thì hưng, thì chẳng phải lời sấm rằng: ʽʽ Tiên đồng đã trở về Bắc, đất nghiệm đã an bài, bảy đời thì trở về Kinh đô, sách trời đã định trước ʼʼ. Mạng trời đã khiến như thế hay sao? Rằng phế hay hưng vốn ở trời, nhưng hơn hết là ở người. Vua Lê kia khen heo và hỏi nồi, thì chẳng phải là khí-tượng đế-vương thì làm sao mà đem so sánh với Cao-hoàng Gia-Long ta được ! Thế là lý-do thành bại của hai bên khác nhau vậy.
Quân-doanh của Tôn-Sĩ-Nghị, tướng nhà Thanh, đóng ở Bồ-Đề. Vua Chiêu-Thống đến đấy yết-kiến Tôn-Sĩ-Nghị. Tôn-Sĩ-Nghị sai người đưa Vua về cung, Vua đi ngay qua chợ thấy một con heo to và một cái nồi đồng lớn, mới hỏi rồi đi. Khi người được sai đi đưa trở về thì Nghị hỏi rằng: ʽʽ Người thấy Quốc-vương cử-động ra sao? ʼʼ . Người ấy kể lại đủ mọi việc đã thấy như thế. Tôn-Sĩ-Nghị mới than: ʽʽ Khen heo, hỏi nồi, chẳng phải là khí-tượng của đế-vương, thì bọn ta sẽ nguy mất ʼʼ.
Tây-Sơn từ năm Canh-tuất trở lại, thì mùa lúa so-sánh có trúng hơn, trong nước bình-yên ( thóc một quan tiền được 100 đấu, dân-chúng đều có chứa trữ, tiếng sáo lời ca có được nghe đó đây). Nhưng ở Bắc-Kỳ thì dân trí thức đều chán ghét triều Tây-Sơn, mong được chân chúa. Từ sau khi Gia-Định đã dẹp yên rồi, mỗi lần gió nồm thổi, thì người người đều nói rằng đó là gió của ông Chủng ( Gia-Long ) vậy.
LỜI BÌNH LUẬN: Lòng người quay về ai thì mạng trời ở đấy. Xem lòng người như thế thì Tây-Sơn kia muốn không mất đi, và ta muốn không hưng lên thì có được chăng?
Trát đặt ở các xã Huấn-Khoa để giữ việc thưa kiện trong xã.
Trát giết Lê Thái-sư. Con của Lê Thái-sư là Đô-đốc Lê-Chất làm phản và đầu-hàng bên ta.
Trát sai người đem mật chiếu đến Thăng-Long để giết quan Đại Đổng-lý.
Năm Kỷ-vị ( Trát, niên-hiệu Cảnh-thịnh thứ 7), vua Càn-Long nhà Thanh băng, Trát sai người sang lễ hương, tờ biểu có viết rằng:
ʽʽ Viên Tản sơn thanh Lô thuỷ bích, vọng cùng thần quốc chi yên lam, Đẩu xu tinh chuyển Nữ tu hàn, cảm-động thiên gia chi vân vật ( Ngô-Thì-Nhậm chi từ dã) ʼʼ.
Nghĩa là : ʽʽNúi Tản-Viên xanh , sông Lô biếc, trông ra xa cùng khỏi màn sương khói của nước nhỏ của chúng tôi, thì thấy sao Bắc-Đẩu đã dời, sao Nữ đã mờ lạnh, mà cảm-động cho cảnh-vật của nước thiên triều phải ảm-đạm vì có quốc-tangʼʼ ( Lời của Ngô-Thì-Nhậm).
Đài Chân-Vũ ở Thăng-Long có cây dung ngã chết , mà mọc dựng lên, lúc ấy nước Đại-man có sai sứ đến xem nói rằng: ʽʽThứ này nước phương Tây chúng tôi không có ʼʼ.
LỜI BÌNH LUẬN : Cây dung là vật nhỏ-nhen, thì làm sao ghi được một việc gì. Quốc-gia sắp hưng-thịnh thì ắt có điềm lành báo trước. Khi vua Hiếu-Tuyên trung hưng, thì có cây liễu đã chết ở Thượng-Lâm bỗng mọc đứng lên mà sống. Thế thì cây dung ấy mọc đứng lên mà sống là điềm lành ứng vào quốc-triều hưng-thịnh lại chăng, cho nên kính-cẩn ghi chép.
Năm Canh-thân ( Trát, niên-hiệu Cảnh-thịnh thứ 8 ) mùa xuân, Phan-Huy-Ích vào yết kiến Trát, được Trát cho làm Lễ bộ Thượng-thư, tước Đoan-nham hầu.
Kho thuốc súng của Trát ở Thăng-Long cháy.
Trát sai tướng Tư-đồ và Thiếu-phó đến vây thành Hoàng-đế.
Năm Tân-dậu ( Trát, niên-hiệu Cảnh-thịnh thứ 9) tháng 5, đại quân của ta lấy lại Phú-Xuân. Trát chạy ra ở Thăng-Long. Lúc ấy Trát đã mất sào-huyệt, nhưng vẫn hay khoe-khoang để trấn áp lòng người.
Tháng 6, Trát tế đàn ở Tây-Hồ, lại cải niên-hiệu là Bảo-Hưng nguyên-niên.
Quan Hộ-bộ Tả-thị-lang Nguyễn-Lượng có dâng lên bài Tây-Hồ cảnh tụng , dùng quốc-âm, lời rất thanh-nhã, Trát mừng vui lắm ( Lượng người ở Phú-Thị, đỗ hương-cống triều Lê xưa).
Mùa đông, Trát thi khoá-sinh.
Tháng 11, Trát tế ở đàn Xạ-đôi-phố.
Năm Nhâm-tuất ( Trát, Bảo-hưng năm thứ 2) tháng giêng, Trát dẫn Tuyên-công, Khang-công và các tướng đánh Hoành-Sơn quan. Trát để Đại-tư-mã Ngoại và Đại-Đô-đốc Phong giữ Thăng-Long. Ngày 5 tháng 2, Tùng-lĩnh tướng quân là Nguyễn-Chí ( người ở Tây-Đảm ) và Mai-lĩnh hầu ( người ở …. Tú, không rõ tên ) cùng đánh Thăng-Long, mà không thắng. Tùng-lĩnh tướng-quân chết. Lúc trước hai ông là bầy tôi của nhà Lê. Nhà Lê mất, thầm có chí phục-thù. Tùng-lĩnh có tài hơn người, nhà giàu có, thường bị người ta khống chế, bị giam một năm ở quan Tư-mã của Tây-Sơn mới được thả ra. Mai-lĩnh hầu thông hiểu tinh-tường toán-số và binh-lược, việc thường biết trước, được người ta gọi là tiểu Khổng-Minh, mở quán ở Thanh-Oai, cùng qua lại với Tùng-lĩnh tướng-quân, âm thầm kết-giao với khách hào-kiệt được 10 năm. Mai-lĩnh hầu thường dùng cỏ thi mà bói để biết Tây-Sơn hưng hay vong. Đến khi quốc triều ra mật-dụ cho các hào kiệt ở Bắc-Kỳ phải khởi-nghĩa để tiêu-diệt Tây-Sơn, thì Tùng-lĩnh tướng-quân nói với Mai-lĩnh hầu rằng phải khởi sự. Mai-lĩnh hầu nói : ʽʽ Tây-Sơn sẽ mất vào năm Nhâm-tuất, trong khoảng mùa hạ mùa thu, khi phương Nam khí vượng lên thì tôi sẽ đánh lấy trước rồi sẽ quay về đầu Cao-hoàng Gia-Long cũng chẳng muộn. Nếu chẳng như thế thì quân đội phương Nam ra đoạt đầu công của ta ʼʼ. Lúc ấy nhân Trát đi về Nam, bèn sang mật-kết với Đô-đốc Tú để làm nội-ứng, viết thơ hiệu-triệu các hào-kiệt trong bốn phương, hẹn đêm mùng 2 tháng 2 giờ tý đều dẫn binh đánh giết vào thành Thăng-Long. Lúc ấy các đạo đã đến trước nhưng không thấy hiệu, đều tản ra đi mất, thì quân Tây-Đảm mới đến, Đô-đốc Tú nghe hiệu, bèn mở cửa thành ngoài. Tú cỡi ngựa đi trước, hai vị Tùng-lĩnh và Mai-lĩnh theo sau. Tú hô gấp lên rằng: ʽʽ Giặc đến dưới thành, xin mở cửa ra đánh ʼʼ. Tướng giữ thành đáp rằng : ʽʽ Giặc đến thì chém đầu ngươi, cửa thành ban đêm không được mở ʼʼ . Tùng-lĩnh không thể làm sao được nữa, bèn đem lửa đốt phố-xá, trong thành rối loạn, tướng Tây-Sơn muốn bỏ thành mà chạy, lúc ấy sắc trời đã sáng. Trên thành trông xuống chỉ thấy mươi người đi theo Tùng-lĩnh, bèn phát binh ra đánh, Tùng công đã thoát thân đi trong đường phố. Có một viên giữ ngục nhận biết, cho nên Tùng-lĩnh bị hại. Còn Mai-lĩnh từ đấy ẩn-dật dấu tông-tích ở chốn chòi tranh, quên chí hồ-thỉ tang-bồng. Trong niên-hiệu Gia-Long, Mai-lĩnh chết ở gia đình. Còn Tùng-lĩnh về sau được quốc triều khen tặng. Có thơ khen:
Âm : Tối ái Mai, Tùng
Lẫm-liệt hàn đông.
Nhất thời cộng sự
Thiên cổ văn phong.
Công nan bất tựu
Nhân xưng kỳ trung.
Mạc tương thành bại
Lệ luận anh hùng.
Dịch : Thương thay Mai và Tùng
Chịu đựng mùa đông lạnh.
Chỉ cộng-sự một lần
Ngàn xưa lưu danh tánh.
Tuy công khó chưa xong
Người người khen trung tín.
Chớ thành bại xét công
Đem anh hùng luận sánh.
Tháng tư năm ấy, quân của Trát lén vào đồn Động-Hải mà không thắng trận, thua to chạy trốn. Quân ta thừa thắng đuổi dài. Quan Tư-mã và quan Thiếu-phó từ đường Quy-Nhơn chạy về đến Nghệ-An đều bị bắt.
Tháng 6, xa giá của Cao-hoàng Gia-Long đến Thăng-Long. Khang công tự treo cổ, Trát và Tuyên-công chạy về phương Bắc đến sông Xương-Giang đều bị quân ta bắt được ( tháng ấy sương bay đầy trời ), nhà Tây-Sơn mất.
(Vô Danh Thị, Tây Sơn Thuật Lược, Bản dịch của Tạ Quang Phát ( Nguyên bản của Société ( Paris) số HM 2178 Legs H.Maspéro), Nhà xuất bản Phủ Quốc-Vụ-Khanh Đặc Trách Văn Hoá).
(1) Điểm này sai. Kinh-đô Phú-Xuân đã bị Hoàng-Ngũ-Phúc chiếm từ năm Giáp-ngọ, Lê (Cảnh-hưng thứ 35) (1774). Năm Đinh-dậu, Cảnh-hưng thứ 38 (1777), Nguyễn-Văn-Nhạc xin Hoàng-Ngũ-Phúc được trấn Quảng-Nam, Nguyễn-Huệ đánh Gia-Định, giết Tân-chính-Vương và chúa Duệ-Tông, chứ Tây-Sơn chưa đánh Kinh-đô Phú-Xuân.
(2) Điểm này sai. Vua Hiếu-Định, tức Duệ-Tông đi đường biển vào Gia-Định năm Ất-vị (1775) chứ không phải năm Đinh-dậu.
(3) Điểm này sai. Mãi đến năm Giáp-thìn (1784) Nguyễn-Ánh mới đi Xiêm, chứ không phải đi năm Đinh-dậu
(4) Trịnh-Khải chứ không phải Trịnh-Tùng, Tùng đã chết năm Quý-hợi (1623)
(5) Phái bộ Trần-Công-Xán, do Nguyễn-Hữu-Chỉnh đề nghị phái vào Phú-Xuân để xin Nguyễn-Huệ trả lại đất Nghệ-An cho nhà Lê, vì thế Nguyễn-Huệ mới giận.
(6) Theo sử-liệu hiện có, chúng ta chỉ biết ʽʽ ở mỗi huyện, vua Quang-Trung đặt một Văn-phân-trị, một Võ-phân-suất, một Tả quản-lý, một Hữu quản-lý, công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng ; công việc quan võ là cai quản và thao diễn quân lính ʼʼ, còn Tả, Hữu quản-lý thì chúng ta không biết dùng cho việc gì. Nếu đoạn này đúng với sự thật ʽʽdùng người giàu có và thế-lực ở địa-phương làm huyện trưởng, khiến đốc-suất lương-thực cho quân-đội…, cơ binh đi tuần thám ban đêm ʼʼ, thì ấy cũng là sáng kiến hay của vua Quang-Trung để trị an trong thời loạn lạc.