Thế nhưng trong trường hợp Hoàng đế Quang Trung – vị anh hùng dân tộc từng dẹp tan 5 vạn quân Xiêm La và đánh đuổi 29 vạn quân Mãn Thanh – , lăng mộ bị đào bới và san bằng khiến ngày nay không ai biết ở đâu.
Vì vậy đi tìm lăng mộ Hoàng đế Quang Trung là một trách nhiệm thiêng liêng của mọi người dân Việt Nam. Đặc biệt các ngày kỉ niệm lần thứ 215 ngày mất và lần thứ 220 ngày lên ngôi của ông đang đến gần
Chỉ trong vòng một phần tư thế kỷ, kinh thành Phú Xuân ba lần đổi chủ.
Cuối năm Giáp ngọ (đầu năm 1775), quân của chúa Trịnh vượt sông Gianh vào chiếm Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phúc Thuần phải chạy vào Quảng Nam và sau đó chạy tiếp vào Gia Định.
Hơn mười năm sau, tháng 5 năm Bính ngọ (1786), Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn giành lấy Phú Xuân từ tay quân Đàng Ngoài. Tại đây, ngày 25-11 năm Mậu thân (22-12-1788), ông lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu Quang Trung, rồi thống lĩnh quân thủy bộ tiến ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Chẳng may, ông mất sớm khi mới 39 tuổi.
Tháng 5 năm Tân dậu (1801), quân của chúa Nguyễn Ánh tái chiếm Phú Xuân.
Quốc sử quán triều Nguyễn chép: tháng 11 năm ấy, Nguyễn Ánh cho “phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ quan tài, phơi thây, bêu đầu ở chợ” [1].
Năm sau (1802), sau khi lên ngôi và lấy niên hiệu Gia Long, Nguyễn Ánh lại sai “đào hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ, giã nát rồi vất đi, đem đầu lâu của Nhạc, Huệ, Nguyễn Quang Toản và bài vị của vợ chồng Huệ giam ở Ngoại Đồ Gia (Nhà Đồ Ngoại), đến năm Minh Mạng thứ hai (1822) đổi giam vào ngục thất, cầm cố mãi mãi” [2].
Sọ ba vua Tây Sơn bị bỏ vào ba cái vò đậy kín, xiềng lại, giam riêng trong ba ngăn của Khám đường. Các nhà nghiên cứu bình luận: “Xưa nay, người ta bỏ tù người sống, chứ ai lại bỏ tù người chết bao giờ. Trong lịch sử Việt Nam và thế giới, từ cổ chí kim, chưa có triều đại nào làm chuyện ấy, chỉ có Gia Long và các vua kế nghiệp ông mới làm công việc tàn ác và quái gở như vậy” [3].
Bất chấp hành động trả thù và lăng nhục của các vua đầu nhà Nguyễn, các cai ngục và lính canh của Khám đường vẫn bí mật thờ cúng ảnh linh của Hoàng đế Quang Trung một cách kính cẩn, không dám gọi “ba cái vò” mà gọi “ba ông vò”. Trong ngày 23-5 năm Ất dậu (5-7-1885), nhân lúc quân Pháp phản công, triều đình rời Huế lên chiến khu Tân Sở, có người đã đem “ba ông vò” chôn ở một nơi nào đó không ai biết.
Gia Long còn “cho thu thập tất cả các tài liệu về nhà Tây Sơn để tiêu hủy” [4]. “Những bộ sử, những tập thơ văn… sản xuất đời Tây Sơn cũng cấm không được lưu hành, tàng trữ” [5]. Nhân dân không được nhắc tới những chuyện có liên quan tới triều đình Tây Sơn. Do đó, chỉ sau vài thế hệ, ở Huế không ai còn nhớ lăng mộ của Hoàng đế Quang Trung ở đâu.
Năm 1928, trong khi khảo sát các ngôi mộ ở vùng ngoại ô Huế, chủ bút Tập san Đô thành hiếu cổ (Bulletin des Amis du Vieux Hué) Léopold Cadière phát hiện một ngôi mộ khá xưa và khá lớn giữa một khu rừng hoang vắng thuộc địa phận thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thành phố Huế ngày nay. Mộ được bao bọc bởi ba lớp thành bằng đá ong nên dân chúng gọi là Mộ ba vành. Theo yêu cầu của ông, Bộ Lễ (của triều đình Huế) cho biết đó là mộ của một quan lớn họ Lê, tước Ý Đức hầu, chức Chánh dinh Hộ bộ kiêm Binh bộ tặng Tá lý công thần đặc tấn Trụ quốc kim tử Vinh Lộc đại phu Chính trị thượng khanh.
Năm 1941, Nguyễn Thiệu Lâu, giáo viên môn sử địa trường Quốc học Huế, đến thăm Mộ ba vành hai lần. Vì một lý do nào đó, mãi 20 năm sau, ông mới kể lại chuyện đi thăm mộ trên tạp chí Bách Khoa xuất bản ở Sài Gòn. Không tham khảo thư tịch cổ, cũng không đào thám sát, nhưng ông kết luận một cách rất chủ quan: “Tôi tin chắc đây là lăng Hoàng đế Quang Trung… Bia của ngài đã bị Hoàng đế Gia Long cho đập, tẩm của ngài đã bị đào” [6].
Không lâu sau đó, cũng trên tạp chí Bách Khoa, nhà nghiên cứu Bửu Kế dựa trên các tư liệu của Léopold Cadière để phủ nhận điều khẳng định vội vàng và thiếu khoa học của Nguyễn Thiệu Lâu [7].
Tuy vậy, trước và sau năm 1975, vẫn có một số người nêu lại giả thuyết “Mộ ba vành là lăng Quang Trung” nhưng bị Lê Văn Hoàng, Phan Thuận An, GS. Phan Huy Lê, PGS.TS Đỗ Bang… bác bỏ. Các nhà nghiên cứu này dẫn chứng Đại Nam thực lục tiền biên: “Tháng chạp năm Ất sửu (tức tháng giêng – 1746), Hộ bộ kiêm Binh bộ Lê Quang Đại chết, được tặng Chính trị thượng khanh”. So với dòng chữ “Cảnh Hưng thất niên tứ nguyệt” (tháng 4 năm thứ 7 đời Cảnh Hưng, tức tháng 5-1746) khắc trên tấm bia đặt trước Mộ ba vành, chênh lệch 5 tháng, có lẽ là thời gian để xây mộ và dựng bia. Vả lại, như Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết, Gia Long đã “quật phá” [8] mộ Quang Trung, như vậy mộ không chỉ bị khai quật mà còn bị phá hủy, chứ không còn tương đối nguyên vẹn như Mộ ba vành.
Ngoài Mộ ba vành, có người cho lăng mộ Quang Trung ở dưới chân núi Kim Phụng vì đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Vũ Hoàng chính hậu Phạm Thị Liên (qua đời năm 1791, trước Quang Trung 1 năm). Một số người khác đưa ra các giả thuyết về lăng mộ Quang Trung ở núi Ngọc Trản, hay núi Chóp Vung, hay xã Bình Điền (huyện Hương Trà).
Trên tạp chí Xưa và Nay số tháng 10-2005, hai nhà nghiên cứu Hồng Phi và Nương Nao phát hiện bài thơ “Kiến Quang Trung linh cữu” (nhìn thấy linh cữu của vua Quang Trung) trong tập Liên Khê Nam hành tạp vịnh của Lê Triệu (1771-1846). Hai ông phỏng đoán chữ đầu của câu 4 của bài thơ: “… sơn họa tại bách niên phần” là chữ nôm “Khuân”. Núi Khuân nằm trong địa bàn huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tuy nhiên, trong cuộc tọa đàm do Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên - Huế tổ chức ngày 8-2-2006, các nhà nghiên cứu cho chữ đó là chữ Hán “Ngụy” viết theo lối thảo, mà ở Thừa Thiên - Huế không có núi nào có tên là núi Ngụy cả.
Trong khi đó, cô giáo Võ Thị Minh Liên ở Bình Thuận lại tin rằng vua Quang Trung được mai táng trong một ngôi mộ cổ nằm trong một khu vườn vắng thuộc huyện Hàm Thuận Bắc, cách thành phố Phan Thiết chưa đầy mười cây số. Xung quanh ngôi mộ cổ này có nhiều mộ hình voi phục. Trước đây cạnh ngôi mộ cổ có một pho tượng mà, theo cô, gương mặt hao hao chân dung vua Quang Trung (giả), rất tiếc pho tượng này đã bị lấy mất.
Nhìn chung những người tham gia vào cuộc tìm kiếm đều thể hiện tấm lòng thành kính đối với vị anh hùng dân tộc. Tuy nhiên, các lí lẽ mà họ đưa ra chưa đủ sức thuyết phục công chúng nói chung và giới nghiên cứu nói riêng.
Do đó, hành trình tìm lăng mộ hoàng đế Quang Trung quay trở lại điểm xuất phát.
Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết Quang Trung “chôn ở phía nam sông Hương” (táng vu Hương Giang chi nam) [9]. Đây là thông tin duy nhất mà Quốc sử quán triều Nguyễn tiết lộ về vị trí của lăng mộ Quang Trung. Thông tin ấy rất quý, song quá mơ hồ.
Không tìm được tư liệu trong các sách sử, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân chuyển sang tìm trong thơ văn Hán Nôm. Mừng thay, ông đã phát hiện nhiều thông tin mà ông đánh giá “còn quý hơn vàng gấp nghìn vạn lần”.
Hành trình tìm lăng mộ Quang Trung của Nguyễn Đắc Xuân trong hơn 20 năm qua không đơn giản chút nào. Ông phải kiên nhẫn dò tìm từng bước.
Bước đầu tiên là phát hiện lăng mộ của vua nằm trong cung điện Đan Dương.
Mấy tháng sau khi vua băng hà, thượng thư bộ Binh kiêm thị trung đại học sĩ Ngô Thì Nhậm thay mặt triều đình Tây Sơn sang Trung Hoa, trước để báo tang, sau để cầu phong cho Nguyễn Quang Toản. Trên đường đi sứ, ông sáng tác bài Cảm hoài kết thúc bằng câu: “Đan Dương cung điện nhật tam thu” với dòng chú thích: “Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y Tiên hoàng ta. Quan sơn xa cách lâu ngày không được trông coi, trông vời viên lăng không ngăn được tấm lòng một ngày bằng ba thu”[10]. Trong những bài thơ khác, Ngô Thì Nhậm cũng nhắc tới “Đan Dương lăng” (bài Khâm vãn Đan Dương lăng), “Đan lăng” (bài Sóc vọng thị tấu nhạc Thái Tổ miếu cung ký), “sơn lăng” (bài Tòng giá bái tảo Đan lăng cung ký)…[11]. Những bài thơ của tiến sĩ họ Ngô cho thấy Quang Trung sống tại cung điện Đan Dương. Sau khi mất, ông được an táng ngay tại đây, nên lăng Đan Dương (gọi tắt là Đan lăng) nằm trong Cung điện Đan Dương. Lăng mộ có hình tròn (viên lăng), nằm ở vùng đồi núi (sơn lăng) của Phú Xuân.
Năm 1799, Vũ Hoàng hậu Lê Thị Ngọc Hân qua đời. Thể theo nguyện vọng của bà, bà được an táng ngay tại Đan Lăng bên cạnh mộ Quang Trung. Bài văn tế Kỷ vị đông nghĩ ngự điện Vũ Hoàng hậu tang quốc âm văn (do thượng thư bộ Lễ kiêm thị trung ngự sử Phan Huy Ích viết thay lời vua) có câu: “Nguyện cũ hẳn nay lọn vẹn, bên Đan lăng quanh quất mạch liên châu” [12].
Đến đây có một thắc mắc được đặt ra: thông thường, cung điện và lăng tẩm của các vua chúa tọa lạc ở hai nơi riêng biệt, cách xa nhau. Tại sao, trong trường hợp Quang Trung, lăng lại nằm trong cung ? Nguyễn Đắc Xuân lý giải: Quang Trung có nhiều đối thủ chính trị: phía bắc có triều đình Mãn Thanh, phía nam có chúa Nguyễn Ánh, gần hơn có Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc. Do đó, theo Đại Nam chính biên liệt truyện, Quang Trung trăng trối với triều thần: “Sau khi ta qua đời, chỉ nên làm lễ tang một cách sơ sài, trong vòng một tháng phải chôn cất”[13]. Sách Lê quý dật sử cũng cho biết: vua dặn “để tang ngắn ngày, ba tháng thôi mặc áo tang”[14]. Tin nhà vua băng hà được giữ kín tuyệt đối, sợ các đối thủ của vua có thể lợi dụng lúc triều đình đang bối rối để tấn công Phú Xuân. Do đó, việc mai táng thi hài vua ngay trong cung điện là một điều có thể hiểu được.
Vua mất đêm 29-7 năm Nhâm tí (tức đêm 15-9-1792) nhưng mãi 2 tháng sau, triều đình mới chính thức loan báo ngày vua mất là 29-9 [15]. Không chỉ giấu kín ngày mất, triều đình còn giữ bí mật cả nơi chôn cất. Khi sứ nhà Thanh sang chia buồn, “Quang Toản làm mộ giả ở Thương Đường (có bản chép là Linh Đường)” [16] bên cạnh Hồ Tây, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Cũng nhờ dựa vào thơ văn Hán Nôm mà Nguyễn Đắc Xuân đi được bước thứ hai: xác định lăng Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm.
Lúc nối ngôi, Quang Toản (tức vua Cảnh Thịnh) mới 10 tuổi, nên cử cậu là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư để trông coi mọi việc trong ngoài của triều đình.
Trong bài Xuân để ký sự, tiến sĩ Phan Huy Ích ghi chú: “Nhà của quan thái sư là chùa Thiền Lâm cũ nằm phía nam sông Hương. Nha thuộc cũng theo đến ở chung quanh chùa” [17]. Trong bài Kinh Thiền Lâm phế tự cảm tác, Phan Huy Ích viết: “Chùa ở núi thuộc xã Dương Xuân” (tự tại Dương Xuân xã sơn) [18]. Phan Huy Ích lúc đó cũng sống và làm việc trong một ngôi chùa gần chùa Thiền Lâm. Trong tập Dật thi lược toàn, ông ghi chú: “Lúc bấy giờ, bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu” [19].
Từ ba ghi chú của Phan Huy Ích, Nguyễn Đắc Xuân rút ra nhận định: lăng Đan Dương, chùa Thiền Lâm và nơi ở của Phan Huy Ích gần nhau, nên bọn tiểu giám giữ lăng Đan Dương thường đến hầu rượu họ Phan. Vả lại, hai thông tin “chùa Thiền Lâm nằm ở phía nam sông Hương” (của Phan Huy Ích) và “Quang Trung chôn ở phía nam sông Hương” (của Đại Nam chính biên liệt truyện) cho thấy hai địa điểm này cùng nằm một hướng.
Dựa vào thư tịch cổ, Nguyễn Đắc Xuân đi bước thứ ba: phỏng đoán cung Đan Dương và phủ Dương Xuân là một.
Từ 1687 đến 1775, Phú Xuân là thủ phủ của xứ Đàng Trong [20]. Ngoài cung điện chính là phủ Phú Xuân, các chúa Nguyễn còn lập các cung điện phụ, trong đó có phủ Dương Xuân. Quốc sử quán triều Nguyễn cho biết: phủ Dương Xuân nằm trên gò Dương Xuân [21]. Chính tại đây, Pierre Poivre được chúa Nguyễn Phúc Khoát tiếp ngày 29-11 năm 1749. Nhà buôn người Pháp này kể: phủ này là “cung điện thứ hai, nhỏ hơn, xây trên một cái gò, hơi xa bờ sông (…). Chúa ở đây vào mùa đông tức mùa mưa kéo dài bốn tháng”. Vì vậy Pierre Poivre gọi phủ Dương Xuân là “cung điện mùa đông” của chúa Nguyễn. Ông cho biết thêm: phủ này “được xây dựng theo kiểu mẫu của phủ lớn” [22].
Tuy có nhỏ hơn phủ Phú Xuân nhưng phủ Dương Xuân cũng khá lớn để các chúa, gia đình cùng những người phục vụ sống và làm việc trong suốt bốn tháng mỗi năm. Thế mà Quốc sử quán triều Nguyễn lại viết: “Từ cơn binh hỏa loạn lạc đến nay, chỗ ấy mất dấu vết, không biết ở vào chỗ nào” (tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ) [23].
Tại sao thế? Nguyễn Đắc Xuân lý giải: từ khi lên ngôi hoàng đế, Quang Trung luôn nghĩ đến việc xây dựng Phượng Hoàng trung đô ở Nghệ An, xem Phú Xuân chỉ là kinh đô tạm thời nên không xây dựng cung điện mới ở đây mà chỉ cải tạo phủ Dương Xuân của các chúa Nguyễn thành cung Đan Dương. Các ngôi chùa (trong đó có chùa Thiền Lâm) nằm chung quanh cung Đan Dương được trưng dụng làm nơi ở và làm việc của bá quan văn võ. Sau khi chiếm lại Phú Xuân, Gia Long không chỉ giết sạch những người trong dòng họ Tây Sơn mà còn đốt sạch sách vở và phá sạch tất cả những gì có dính dáng đến triều đại Tây Sơn [24]. Do đó phủ Dương Xuân bị san bằng chỉ vì đã được Quang Trung cải tạo thành cung Đan Dương.
Một lý do khác khiến phủ Dương Xuân / cung Đan Dương / lăng Đan Dương “biến mất” là vì chùa Thiền Lâm (mới) nằm chồng lên.
Trong những năm 1897-1898, thực dân Pháp mở “Nam Giao tân lộ” (nay là đường Điện Biên Phủ). Đường này xuyên qua khuôn viên chùa Thiền Lâm nên chùa phải dời qua phía tây. Do đó, rất có thể chùa hiện nay nằm chồng lên một phần phủ / cung / lăng ngày xưa.
Theo khảo sát thực địa của Nguyễn Đắc Xuân, chung quanh chùa Thiền Lâm có nhiều phiến đá táng cột (cỡ 45x45 cm, dày 25 cm), nhiều viên đá lát (cỡ 30x30 cm), hàng nghìn viên gạch vồ… Tỳ kheo Thích Chơn Trí, trụ trì chùa, nhận xét: “Gạch đá đó phải là của những kiến trúc lịch sử quan trọng có liên quan đến vua chúa, còn dân thường ta ngày xưa làm gì có được những thứ vật liệu tốt, rất quý hiếm đó”.
Đặc biệt, chùa có bốn tấm đá dài 2,27 m, rộng 0,67 m, dày 0,035 m. Trong thư đề ngày 15-12-1991, GS Hoàng Xuân Hãn (ở Pháp, nay đã quá cố) tán thành phỏng đoán của Nguyễn Đắc Xuân, cho rằng những tấm đá này “có thể là quách” bọc ngoài quan tài của Quang Trung.
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Đắc Xuân đưa ra một định hướng mới, khá thuyết phục trong việc tìm kiếm lăng mộ Quang Trung.
Tuy nhiên, để xác minh giả thuyết “lăng Đan Dương” này có chính xác hay không, cần phải tiến hành bước tiếp theo là đào thăm dò để xem dưới khu vực chùa Thiền Lâm hiện nay có những di vật gì có thể giúp chúng ta khẳng định đây là lăng mộ Quang Trung.
Sắp tới, chúng ta tiến hành kỷ niệm lần thứ 215 ngày mất (15-9-1792 – 15-9-2007) và lần thứ 220 ngày lên ngôi của Hoàng đế Quang Trung (22-12-1788 – 22-12-2008). Do đó, rất mong ban lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên – Huế có kế hoạch giúp đỡ các nhà sử học và khảo cổ học trong cả nước thực hiện cuộc khai quật nói trên. Đây sẽ là một việc làm có ý nghĩa thiết thực, thể hiện sự trân trọng biết ơn của toàn dân ta đối với vị anh hùng dân tộc – Hoàng đế Quang Trung.
Tiến sĩ Phan Văn Hòang
(T/c Kiến Thức Ngày Nay, số 603, ra ngày 10-5-2007)
TP HCM, mùa sen nở 2007
Chú thích
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhất kỷ, quyển XV, tờ 26a.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhất kỷ, quyển XIX, tờ 2a.
[3] Nhiều tác giả, Nguyễn Huệ - Phú Xuân, NXB Thuận Hóa, 1986, tr. 139.
[4] Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, NXB Mũi Cà Mau, 1994, tr. 337.
[5] Quách Tấn – Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Sở Văn hóa và thông tin Nghĩa Bình, 1988, tr. 247.
[6] Nguyễn Thiệu Lâu, Lăng Hoàng đế Quang Trung, tạp chí Bách Khoa, số 99, ngày 15-2-1961
[7] Bửu Kế, Từ lăng Sọ đến lăng Ba Vành, tạp chí Bách Khoa, số 102, ngày 1-4-1961.
[8] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, quyển XXX, tờ 43a
[9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, quyển XXX, tờ 43a
[10] Ngô Thì Nhậm, Tác phẩm, NXB Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2001, tập 2, tr. 369-370.
[11] Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tập 1.
[12] Nguyễn Cẩm Thúy – Nguyễn Phạm Hùng, Văn thơ Nôm thời Tây Sơn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 178.
[13] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện, quyển XXX, tờ 42b
[14] Lê quý dật sử (bản dịch của Phạm Văn Thắm), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987, tr. 108.
[15] Quốc sử quán triều Nguyễn (Đại Nam chính biên liệt truyện) cũng như các sử quan nhà Thanh (Đại Thanh thực lục) không biết điều uẩn khúc này nên cứ tưởng vua mất ngày 29-9.
[16] Lê quý dật sử (bản dịch của Phạm Văn Thắm), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987, tr. 109.
[17] Thơ văn Phan Huy Ích, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tập 2, tr. 86.
[18] Thơ văn Phan Huy Ích, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tập 2, tr. 87.
[19] Thơ văn Phan Huy Ích, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tập 2, tr. 124.
[20] Trừ 26 năm (từ 1712 đến 1738) chúa Nguyễn Phúc Chu đóng đô ở Bác Vọng.
[21] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Thừa Thiên phủ, tập thượng, tờ 56.
[22] Bulletin des Amis du Vieux Hué số tháng 7-9 năm 1925, tr. 138 : “ Le second palais, qui est plus petit, est bâti sur une élévation un peu éloignée de la rivière (…). Le Roy y pense l’hiver ou la saison des pluies qui dure quatre mois (…). Ce palais d’hiver est construit sur le modèle du grand”.
[23] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Thừa Thiên phủ, tập thượng, tờ 56.
[24] Chẳng hạn, Gia Long ra lệnh thu gom các đồ bằng đồng của thời Tây Sơn rồi cho nấu chảy để đúc 9 khẩu thần công.
(Nguồn: Nguyễn Đắc Xuân Đi Tìm Dấu Tích Cung Điện Đan Dương sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung, Nxb Thuận Hóa 2007, từ tr.290 đến tr.300)