Sử Việt Nam
Liệt Truyện [DNCBLT], quyển XXX nhan đề Nguỵ Tây chép:
已而福康安抵粵西専意講和。移書以利害譬諭之。惠亦以金幣厚遺求爲玊成。遂改名光平,遣其姪阮光顯竝陪臣武輝瑨齎遞貢品,叩關懇請入覲。清帝嘉悅遂準其奏…
…Dĩ nhi Phúc Khang An để Việt Tây chuyên ý giảng hoà. Di thư dĩ lợi hại thí dụ chi. Huệ diệc dĩ kim tệ hậu di cầu vi ngọc thành. Toại cải danh Quang Bình, khiển kỳ điệt Nguyễn Quang Hiển tỉnh bồi thần Vũ Huy Tấn tê đệ cống phẩm, khấu quan khẩn thỉnh nhập cận. Thanh đế gia duyệt toại chuẩn kỳ tấu …
…Thế nên Phúc Khang An đến Việt Tây [tức Quảng Tây] một lòng giảng hoà, gửi thư đem lợi hại mà chỉ vẽ cho Huệ. Huệ cũng đem vàng tiền hậu hĩ tặng cho cầu xin giúp đỡ. Rồi đổi tên là Quang Bình, sai cháu là Nguyễn Quang Hiển và bồi thần Vũ Huy Tấn đem cống phẩm, gõ cửa quan khẩn cầu xin cho nhập cận [yết kiến hoàng đế]. Vua Thanh vui mừng nên thuận cho lời tâu …
Sử Trung Hoa
Nguỵ Nguyên trong Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký viết nguyên văn:
…阮惠既踞安南。自知賈禍大。懼王師再討。又方與暹羅搆兵。恐暹羅乘其後。敂關謝罪乞降。改名阮光平。遣其兄子光顯,賚表入貢。言守廣南已九世。與安南國敵國。非君臣。且蠻觸自爭。非敢抗中國…
…Nguyễn Huệ ký cứ An Nam, tự tri giả hoạ đại, cụ vương sư tái thảo. Hựu phương dữ Xiêm La cấu binh, khủng Xiêm La thừa kỳ hậu. Khấu quan tạ tội khất hàng. Cải danh Nguyễn Quang Bình. Khiển kỳ huynh tử Quang Hiển, lãi biểu nhập cống, khẩn tứ phong hiệu. Ngôn thủ Quảng Nam dĩ cửu thế, dữ An Nam quốc địch quốc, phi quân thần. Thả man xúc tự tranh, phi cảm kháng Trung Quốc…
…Nguyễn Huệ chiếm được An Nam biết rằng đã chuốc hoạ nên sợ quân nhà vua sẽ lại sang lần nữa, lại mới cùng Xiêm La giao binh, sợ quân Xiêm thừa cơ đánh vào phía sau nên gõ cửa quan tạ tội xin hàng, đổi tên là Nguyễn Quang Bình. [Chú: Theo Minh Sử, vua nước An Nam đều có hai tên, một tên dùng trên các tờ biểu gửi sang Trung Quốc], sai con anh là Quang Hiển mang biểu sang xin cống trong đó nói rằng ở Quang Nam đã chín đời, với An Nam là nước đối địch, không phải là vua tôi, ấy là chuyện người man tranh giành với nhau (man xúc tự tranh 蠻觸自争)[1] chứ không dám kháng cự Trung Quốc. Xin được sang năm đích thân nhập cận ở kinh sư, lại lập miếu trong nước để cúng tế các tướng sĩ đã tử trận.
Theo Thanh Sử (Cảo) quyển 527, Liệt Truyện 313, Thuộc Quốc truyện tam, Việt Nam chép rằng:
…阮惠自知賈禍。旣懼王師再討。又方與暹羅搆兵。恐暹羅之乘其後也。於是叩關謝罪乞降。改名阮光平。遣其兄子光顯,齎表入貢。懇賜封號。略言守廣南已九世。與安南敵國。非君臣。且蠻觸自爭。非敢抗中國…
…Nguyễn Huệ tự tri giả hoạ, ký cụ vương sư tái thảo. Hựu phương dữ Xiêm La cấu binh, khủng Xiêm La chi thừa kỳ hậu dã. Ư thị khấu quan tạ tội khất hàng. Cải danh Nguyễn Quang Bình. Khiển kỳ huynh tử Quang Hiển, tê biểu nhập cống, khẩn tứ phong hiệu. Lược ngôn thủ Quảng Nam dĩ cửu thế, dữ An Nam địch quốc, phi quân thần. Thả man xúc tự tranh, phi cảm kháng Trung Quốc…
…Nguyễn Huệ tự biết mình đã chuốc lấy hoạ, lại sợ vương sư sang đánh lần thứ hai. Gần đây mới cùng Xiêm La đánh nhau, nay sợ Xiêm La sẽ thừa cơ đánh vào phía sau, vì thế mới gõ cửa quan tạ tội xin hàng. Đổi tên là Nguyễn Quang Bình, sai con của anh là Quang Hiển mang biểu vào cống, xin được ban cho phong hiệu. Đại lược nói rằng đã ở đất Quảng Nam chín đời, với An Nam là nước địch, không phải là vua tôi. Ấy là chuyện người man tranh giành với nhau chứ không dám chống lại Trung Quốc …[2]
So sánh hai tài liệu, chúng ta có thể khẳng định rằng Thanh Sử Cảo [soạn cuối đời Thanh, đầu Dân Quốc] chịu ảnh hưởng của Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký [đời Đạo Quang], đã chép lại gần như nguyên văn của Nguỵ Nguyên. Luận điểm này được sử dụng tại hầu hết các bộ thông sử sau này của Trung Hoa.
Ý nghĩa của Phái bộ Nguyễn Quang Hiển
Căn cứ vào lối tường thuật rất giản lược nêu trên, phái bộ Nguyễn Quang Hiển hầu như ít người biết tới có chăng chỉ cũng như một sứ thần bình thường. Coi như một sứ bộ bình thường cũng đã thiếu sót, Hoàng Lê Nhất Thống Chí lại hoàn toàn không đề cập đến phái đoàn này còn nhiều tài liệu thì lại nhầm rằng đây chính là phái bộ “giả vương” đề cập trong sử triều Nguyễn. Việc lẫn lộn đó gây ra nhiều thông tin sai lạc, đôi khi kết nối việc nọ với việc kia một cách tuỳ tiện vô sở cứ[3].
Theo đòi hỏi của triều đình Trung Hoa, muốn được công nhận như một triều đại chính thức[4] – vua An Nam phải đích thân sang kinh đô dâng biểu cầu hàng chứng tỏ đã qui phục một cách chân thành.
Để phản ứng lại đòi hỏi ngạo mạn này, vua Quang Trung và giới ngoại giao Tây Sơn đã đặt Thanh triều vào hoàn cảnh phải công nhận Nguyễn Quang Bình như người đứng đầu duy nhất của nước ta. Đó là cử một nhân vật mà trên danh nghĩa cũng không khác gì đích thân sang chầu: cháu gọi vua Quang Trung bằng chú nhưng vai vế là trưởng tộc, hay ít ra cũng là trưởng chi của dòng họ Nguyễn vốn đã chín đời ở đất Tây Sơn. Khi công nhận Nguyễn Quang Hiển thay mặt vua Quang Trung, vô hình trung nhà Thanh cũng công nhận một triều đại mới. Đó chính là lý do tại sao thay vì tiếp tục tiến hành các hình thức đàm phán, nước ta lại chấp nhận một hình thức “quốc vương sang chầu” bằng một phái đoàn thay mặt làm trung gian.
Từ ý nghĩa “đại thân kim nhân” (người vàng thay mặt), nước ta đã đổi thành “tuy đại do thân” (tuy thay mặt nhưng cũng như chính mình), vừa bảo tồn quốc thể, vừa khiến nhà Thanh phải tiếp đón sứ bộ cầu phong của nước ta một cách khác thường.
Tuy nhiên, phái bộ Nguyễn Quang Hiển không chỉ thay mặt vua Quang Trung mà còn mang theo nhiều nhiệm vụ khác, đóng vai trò một phái đoàn tiền sát để thu thập tin tức cho những bước đi kế tiếp của triều đình Tây Sơn.
Tóm lược
Phái bộ Nguyễn Quang Hiển được cử đi với nhiều sứ mạng công khai và bí mật:
1. Thay mặt vua Quang Trung sang triều kiến hoàng đế nhà Thanh để chính thức hoá việc công nhận triều Tây Sơn;
2. Tìm hiểu xem có thực Lê Duy Kỳ (vua Chiêu Thống) và tuỳ tòng hiện đang ở Quảng Tây;
3. Lượng giá việc Thanh triều mời Nguyễn Huệ sang Bắc Kinh có những âm mưu khác hay không?
Thay mặt vui Quang Trung
Trên nguyên tắc, việc Nguyễn Quang Hiển sang kinh đô nhà Thanh là một sứ bộ “thay mặt vua Quang Trung” [5] để huỷ bỏ lệ cống người vàng với một nguyên cớ rất chính đáng là tình hình trong nước chưa yên nên quốc vương không thể ra khỏi nước.
Ngược lại, nhà Thanh cũng muốn nhân phái đoàn thiện chí này để chính thức công nhận một tân vương và từ bỏ sự trợ giúp dòng vua cũ.
Tìm hiểu về vua Lê và tùy tùng
Nhân dịp phái đoàn Nguyễn Quang Hiển sang Trung Hoa, Thanh triều sắp xếp họ đi qua Quế Lâm để chứng kiến gia đình vua Lê và những người đi theo đã được an tháp ở Trung Hoa. Tất cả đều cạo đầu, kết tóc, thay đổi y phục theo kiểu Mãn Thanh không còn triển vọng trở về tranh đoạt vương vị với Nguyễn Huệ. Nhà Thanh cũng muốn chứng tỏ rằng họ không có dã tâm điệu hổ ly sơn, dùng nguỵ kế để đưa Lê Duy Kỳ về nước.
Tình hình tiếp đãi
Vua Càn Long tạo mọi ưu sủng để phái đoàn Tây Sơn được đối xử một cách vượt mức thường. Ngoài hai viên chức cấp tỉnh (Thang Hùng Nghiệp và Đức Khắc Tinh Ngạch) hộ tống suốt hành trình, Nguyễn Quang Hiển cũng được đón tiếp bằng nghi lễ mà Phúc Khang An soạn ra, đến đâu cũng được ăn yến, xem tuồng như khách quí.
Ưu đãi khi ở Nhiệt Hà và nghi lễ trang trọng khi nhận sắc ấn ở Bắc Kinh cũng gián tiếp thông báo rằng khi vua Quang Trung sang chúc thọ, việc đối xử sẽ còn hậu hĩ gấp bội.
Thanh triều
Khi thấy nước ta chỉ hứa hẹn mơ hồ là đợi khi tình hình tạm yên vua Quang Trung sẽ sang triều cận, Phúc Khang An liền gia tăng sức ép bắt Nguyễn Quang Hiển phải báo cho triều đình Tây Sơn xác định trên giấy trắng mực đen cam kết quốc vương sẽ đích thân qua Bắc Kinh năm Canh Tuất.
Sau đó Phúc Khang An cũng tìm cách đưa một số thủ lãnh của các nhóm cựu thần nhà Lê sang Trung Hoa làm con tin để áp lực khiến triều đình Quang Trung không thể nuốt lời.
Tổng kết
Việc đưa một phái đoàn trung gian để giải quyết yêu sách của nhà Thanh, đứng về mặt thủ tục nước ta có vẻ như kém thế vì đã phải chiều theo đòi hỏi của thiên triều. Tuy nhiên chiếu theo tình hình lúc đó, việc đưa phái bộ Nguyễn Quang Hiển sang Trung Hoa đã gây ra khó khăn không ít cho đối phương.
Trước hết, phái bộ Nguyễn Quang Hiển đã tạo thêm một giai đoạn trong quá trình công nhận, nếu theo đúng nghi lễ có thể mất đến hàng năm và khi vua Quang Trung được phong vương thì hạn kỳ chúc thọ đã trễ. Để phô trương và xoá đi việc thất bại quân sự, vua Càn Long ra lệnh làm lễ giao sắc ấn cho Nguyễn Quang Hiển ở điện Thái Hoà mang về nước.
Khi biết vua Quang Trung sai cháu đem biểu cầu hàng sang kinh đô, vua Càn Long đã gửi ngay một đặc dụ và một bài thơ ngự chế sai Phúc Khang An cho người đem sang Thăng Long.
Khi tính toán việc gửi một phái đoàn sang báo trước rồi lại tự mình đích thân sang làm lễ phong vương [như ý muốn của vua Càn Long], Phúc Khang An thấy không kịp. Để tranh thủ thời gian, Phúc Khang An [có lẽ] đã tìm cách biến một phái đoàn tiền phong [đem thư và quà sang Thăng Long giao cho Nguyễn Huệ] như bản ý ban đầu của vua Càn Long thành một phái bộ phong vương.
Hình thức vừa bất thường, vừa bất đẳng này đã gây nhiều thắc mắc và nghi ngại cho phía nước ta đưa tới những hình thức phản kháng mà nhà Thanh phải miễn cưỡng chấp nhận.
Tuy không biết rõ tranh luận giữa hai bên như thế nào nhưng có lẽ nước ta cũng vin vào hình thức để bác khước (nghi lễ quá cấp bách) hay tâm linh để biện bạch (phong vương mà không có sắc thư hay ấn bạc) về việc cố đô hết vượng khí. Cũng có thể triều đình Tây Sơn cố tình diên trì để chờ Nguyễn Quang Hiển về đến nhà rồi khi đó Thành Lâm mới làm lễ trao ấn, thụ sắc cho trịnh trọng.
Thủ tục cầu phong
Cứ theo đúng thủ tục [tương tự như đã xảy ra trong các triều đại trước], phái đoàn Nguyễn Quang Hiển sang Yên Kinh với nhiệm vụ chính là đem biểu văn trình bày lý do về tranh chấp tại An Nam và những “hiểu lầm” đưa đến việc quân Thanh thua trận. Biểu văn này thường được gọi là biểu “trần tình”.
Một khi vua Càn Long chấp nhận những lời giải thích đó, nước ta mới đưa một phái đoàn đem lễ vật mang biểu văn chính thức thần phục và xin phong vương cho vua Quang Trung. Biểu này gọi là biểu “cầu phong”.
Sau khi nhận biểu qui thuận rồi, hoàng đế Trung Hoa mới gửi một đạo sắc thư phong cho Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương (sắc phong) và cho người sang Thăng Long làm lễ để chính thức hoá vai trò đó (phong vương). Trong trường hợp thay đổi triều đại, Thanh triều sẽ ban cho một cái ấn mới để đổi cái ấn cũ như một dấu hiệu thay đổi mệnh trời.
Như lệ thường việc qua lại mất đến 2, 3 năm nhưng vì nhà Thanh muốn sớm có một quốc vương sang chúc thọ, một số nghi lễ đã được thay đổi cho sát với thực tế nên việc thi hành có chỗ bị khiên cưỡng. Việc tiết giảm gây thắc mắc khi nghiên cứu về tiến trình và nghi lễ của giai đoạn này[6].
Nguyễn Quang Hiển sang Bắc Kinh có gì khác thường?
Việc đưa Nguyễn Quang Hiển làm trưởng phái đoàn một cách bán chính thức đã buộc Thanh triều phải giải quyết cho thoả đáng. Nhiều chi tiết cho thấy phái đoàn Nguyễn Quang Hiển không nằm trong kế hoạch dự tính trước và chính các quan nhà Thanh ở Quảng Tây cũng chỉ được thông báo một cách bất ngờ.
Theo lời tâu của Phúc Khang An thì Nguyễn Hữu Trù gửi thư cho Thang Hùng Nghiệp thông báo Nguyễn Quang Bình sẽ cử một đại diện lên Nam Quan trao tờ biểu cầu phong. Các quan nhà Thanh chỉ biết đó là người thân tín và gần gũi với quốc trưởng [dưới danh hiệu “quốc thân” là người trong họ nội của quốc trưởng] nhưng không rõ hai người có liên hệ thế nào?
Ngày17 tháng Tư, Nguyễn Quang Hiển và phái đoàn An Nam đến Lạng Sơn và tin này được báo ngay cho quan nhà Thanh.
Ngày hôm sau [18 tháng Tư], Phúc Khang An ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp mở cửa đón sứ bộ Hô Hổ Hầu Nguyễn Hữu Trù đánh tiếng là đem phó bản biểu văn để xem trước nhưng mục đích chính yếu là trao đổi nghi lễ đón tiếp phái đoàn thay mặt vua Quang Trung được dự tính sẽ qua cửa Nam Quan ngày hôm sau. Phúc Khang An xem biểu văn, sửa đổi vài chữ để Nguyễn Hữu Trù đem về viết lại bản chính cho Nguyễn Quang Hiển đem qua.
Nguyễn Quang Hiển tại Nam Quan
Ngày 19 tháng Tư, giờ Dần [5-7 giờ sáng], nhà Thanh cho binh sĩ dàn thành đội ngũ ở Nam Quan, trưng bày cờ xí [thể thức phô diễn của Trung Hoa và tính khí thích phô trương của Phúc Khang An] làm lễ khai quan đón phái đoàn nước ta. Đến giờ Thìn [9-11 giờ sáng] sau pháo lệnh và chiêng trống, cửa mở ra.
Phía nước ta, phái đoàn do Nguyễn Quang Hiển cầm đầu với 6 quan viên, 1 thông sự và 60 tùy tòng cùng vài trăm binh sĩ dàn chào đã đợi sẵn. Thang Hùng Nghiệp đi sang làm lễ kiến diện với Nguyễn Quang Hiển và quan viên, sau đó dẫn đường đưa phái đoàn nước ta qua ải vào Chiêu Đức Đài, nơi đây đã trần thiết nghi vệ và hương án tượng trưng cho ngai vàng của hoàng đế nhà Thanh.
Phúc Khang An và quan lại nhà Thanh tiến ra chào hỏi. Theo đúng thủ tục, Nguyễn Quang Hiển và tùy tòng đến trước hương án làm lễ tam quị cửu khấu là lễ ra mắt vua Thanh rồi quay sang làm lễ kiến diện với Phúc Khang An.
Phúc Khang An và Nguyễn Quang Hiển hai người hướng vào nhau làm lễ nhất quị tam khấu[7] [quì xuống rập đầu ba lần], sau đó mỗi bên giới thiệu thành phần, thăm hỏi qua lại. Sau khi nghi lễ hoàn tất, Phúc Khang An mời phái đoàn An Nam nhập tiệc, đích thân tổng đốc Lưỡng Quảng bồi tiếp Nguyễn Quang Hiển, tuần phủ Quảng Tây và các quan địa phương tiếp các sứ thần.
Trong bữa ăn, Nguyễn Quang Hiển cho Phúc Khang An biết ông ta là “đích trưởng điệt [cháu lớn nhất thuộc dòng chính], Nguyễn Huệ nuôi dạy như con. Cha tôi là Nguyễn Quang Hoa [阮光華] mất sớm, chú thứ hai là Quang Nhạc [光岳], hiện ở Quảng Nam, chú thứ ba là Quang Bình [光平] tức Nguyễn Huệ, chú thứ tư là Quang Thái [光泰] cũng sống ở Quảng Nam, trên núi Tây Sơn”.[8]
Như vậy, Nguyễn Quang Hiển là trưởng chi của dòng Nguyễn Nhạc tuy tuổi nhỏ nhưng theo truyền thống Á Đông thì vai vế trong họ cũng lớn, sang Trung Hoa không phải như một nhân vật tầm thường mà là đại diện cho dòng họ Nguyễn để thay mặt cầu phong.
Theo Phúc Khang An tâu lên thì Nguyễn Quang Hiển trạc độ 30 tuổi mỗi khi nhắc đến hoàng đế tay bưng lên trán là cử chỉ tỏ vẻ cung kính. Nguyễn Quang Hiển trao lại cho tổng đốc Lưỡng Quảng tờ biểu của vua Quang Trung gửi lên vua Càn Long. Việc gặp gỡ này là một biến cố lớn đành dấu việc nhà Thanh chấm dứt ủng hộ nhà Lê sang công nhận Tây Sơn.[9]
Sau đó, Phúc Khang An hoả tốc báo lên vua Càn Long về diễn biến đồng thời chuyển thỉnh cầu xin cho phái đoàn “thay mặt vua Quang Trung” lên triều cận [gặp mặt nhà vua] để chính thức dâng biểu xin thần phục.
Việc chấp thuận đó cũng được cụ thể hoá bằng việc nhận các lễ vật nước ta đem sang bao gồm vàng và bạc, phương vật đưa lên kinh. Biểu văn mà Nguyễn Quang Hiển mang sang xác định vua Lê và họ Nguyễn không có quan hệ quân thần, Nguyễn Huệ vốn chỉ là một người không quan tước [bố y] tùy thời mà nổi lên, đất Quảng Nam là đất cũ Chiêm Thành nên không phải là tranh nước của họ Lê. Việc giao tranh với quân Thanh cũng do thế chẳng đặng đừng ngoài ý muốn.
Một khi được chấp thuận, phái đoàn sẽ đưa lễ vật và tờ biểu [bản chính] của nước ta lên kinh đô triều kiến. [bản sao của biểu văn này đã được chuyển ngay lên Bắc Kinh kèm theo tấu thư của Phúc Khang An xin công nhận Tây Sơn]. Khi phái đoàn lên Bắc Kinh, theo qui chế nhà Thanh họ sẽ cử một quan viên “bạn tống” [đi cùng để hướng dẫn] theo một lộ trình, qua các trạm nghỉ nhất định.
Lợi dụng khi tình hình còn tranh tối tranh sáng, Phúc Khang An bí mật sai người sang An Nam dụ nhóm Lê Quýnh sang Trung Hoa bàn quốc sự, với ý định đưa cả bọn ra khỏi nước, vừa xác định sự thành tín của thiên triều, vừa dọn bớt chướng ngại cho Nguyễn Huệ đồng thời nắm trong tay một con bài ngõ hầu có thể mặc cả về việc vua Quang Trung đích thân sang chúc thọ.
Trong khi sử nhà Thanh miêu tả phái bộ Nguyễn Quang Hiển như một sứ đoàn thần phục thượng quốc, nghi lễ giữa hai bên gần giống như việc vua một nước nhỏ gặp sứ thần nước lớn trong Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ cho thấy việc vua Quang Trung cử Nguyễn Quang Hiển lên Lạng Sơn không phải là một động thái khuất phục mà là một sắp xếp có chủ ý.
Đáp ứng của Thanh triều
Ngay khi được báo lên rằng Nguyễn Quang Hiển xin nhập cận, vua Càn Long liền chuẩn thuận và lập tức gửi một sắc dụ cho Nguyễn Quang Bình [tức vua Quang Trung] xác định rằng nhà Thanh không còn ủng hộ Lê Duy Kỳ nữa. Sắc dụ này viết ngày mồng 3 tháng Năm, còn ghi trong KDANKL [quyển XIX] như sau:
Nguyên văn:
據協辦大學士兩廣總督公福康安等奏。爾遣親姪阮光顯敬賫表貢。抵關乞降等語。並將原表呈覽。
朕閱爾表內。稱爾先有廣南之地。非與黎氏有上下之分。上年曾遣人叩關。偹陳與黎氏搆畔緣由。邊臣駁回。不卽遞達。嗣官兵出關征勦。直抵黎城。
爾於今年正月。前至黎城。欲向黎維祁詢問籲請大兵之故。不料官兵一見爾衆。奮勇殺戮。爾手下人等。猝難束手就縛。又値江橋折斷。官兵致有損傷。不勝惶懼。已屢次遣人叩關請罪。並送回未出官兵。其戕害提鎭之人。業目睹正法。
本應躬詣闕廷。陳情請罪。國內初罹兵革。人情惶惑。尚未安集。謹遣親姪阮光顯。隨表入覲。
並據阮光顯禀稱。爾俟國事稍定。尚乞親自到京譫覲等語。安南黎氏。立國已久。且臣事天朝。恪共職貢。百有餘年。素著恭順。爾在廣南。從前並未修朝貢。上年黎維祁母妻赴關控訴。以爾搆亂稱兵。佔據其國。致黎民顛沛流離。籲請救援。
此事爲天朝字小存亡。體統攸繫。是以前任督臣孫士毅。自請帶兵出關。其所辦甚正。並無不合。爾雖曾遣人叩關辯訴。但守邊之臣。向來止知安南有黎。而不知有阮。將原禀駁回。所辦本正。
然督臣孫士毅奏克復黎城之後。朕即以黎氏近年國內多故。黎維祁又復懦怯無能。優柔廢弛。看來天心竟有厭棄黎氏之意。
朕從來辦理庶務。無不順天而行。隨經諭知孫士毅。黎城既復。當即撤兵。並不令其復至廣南。問爾前此稱兵搆衅之罪也。
乃孫士毅於克復黎城後。未能遵旨速撤。在彼躭延一月有餘。兹爾率衆至黎城。欲向黎維祁詢問。
官兵在彼。豈有坐視之理。遂爾奮勇接戰。爾衆畏死抵拒。致傷我官兵。至提鎮等職司勦禦。其臨陣損軀。俱堪嘉憫。已從優議卹。將許世亨封以伯爵。總兵二人。皆予世職。並入昭忠祠。以示奖勵。
爾以安南頭目。敢於抗拒官兵。戕害提鎮大員。獲罪甚重。是以將福康安調任兩廣總督。原令調集各路大兵。整軍問罪。但念爾屢次遣人叩關請罪。並於未出官兵。善爲收養。敬謹送回。是爾尚知畏懼悔罪。隨命督臣福康安等。暫緩進討。
今爾所進表文。以爾與黎氏並無上下之分。且稱戕害官員之人。業目睹正法等語。安南僻在海陬。爾與黎氏有無名分。原無辦証。現在俱不加深究。其戕害提鎮之人。自由臨陣之際。彼此未能辦識。而許世亨等。復奮不返顧。以致深入損軀。爾衆尚非有心干犯。所稱目睹正法之語。朕憐汝誠心悔罪。不復深究矣。
爾既負責較重。應躬詣闕廷謝罪。因國內甫罹兵革。人情惶惑。先遣爾姪阮光顯隨表入覲。實爲恭謹小心。可以赦爾前罪。不加進討。已令左江道湯雄業。護送爾姪阮光顯來京瞻覲。
但爾雖自知悔懼。其抗拒官兵。傷及提鎮之咎。究難解免。現在尚未親身詣闕。請罪乞恩。遽思仰邀封號。天朝無此體制。
其提鎮等。雖係臨陣無心。悟行傷害。究因爾與黎搆難所致。爾並當於安南地方。建立祠宇。春秋虔祭。庶可稍贖前愆。從前西藏滋事時。變起倉卒。駐藏大臣傅清拾布敦等。曾損軀以殉。平定後。該處人衆爲之建祠致祭。至今猶著靈感。爾能恪遵照辦。不特許世亨等死事之心。得以稍慰。即中外臣民。亦可共喻爾悔罪歸附之誠。届時朕鑒爾畏感悃忱。自必格外加恩。或即封以王爵。爾世世子孫。可以長守安南。彼時再呈進貢物。亦即可賞收。仍當加之厚賜。以示優眷。
朕臨御五十餘年。凡庶邦藩部。無不待以誠信。即如從前平定凖噶爾時。厄魯特台吉舍楞。曾將副都統唐喀禄戕害。逃至俄羅斯地方。嗣於土爾扈特投順時。舍楞即隨同投進。朕念其悔罪之心。特加恩宥。仍封王爵。賞給游牧地方居住。可見朕撫綏方夏。無不仁至義盡。
况黎維祁柔懦無能。棄印逃竄。若律以天朝擅離職守之條。尚當重治其罪。今念伊係屬外藩。僅止無能。尚無違犯。不忍加之誅戮。令在桂林省城安插。斷無乘爾入覲。復將黎維祁送回安南。令其主國之理
兹特賜爾珍珠手串一掛。爾當衹乘恩命。向化更新。以冀永膺渥眷。
勉之。
Dịch âm:
Cứ Hiệp Biện đại học sĩ Lưỡng Quảng tổng đốc công Phúc Khang An đẳng tấu. Nhĩ khiển thân điệt Nguyễn Quang Hiển kính lãi biểu cống. Ðể quan khất hàng đẳng ngữ. Tịnh tương nguyên biểu trình lãm.
Trẫm duyệt nhĩ biểu nội. Xưng nhĩ tiên hữu Quảng Nam chi địa. Phi dữ Lê thị hữu thượng hạ chi phận. Thượng niên tằng khiển nhập khấu quan. Bị trần dữ Lê thị cấu hấn duyên do. Biên thần bác hồi. Bất tức đệ đạt. Tự quan binh xuất quan chinh tiễu. Trực để Lê thành.
Nhĩ ư kim niên chính nguyệt. Tiền chí Lê thành. Dục hướng Lê Duy Kỳ tuân dụ thỉnh đại binh chi cố. Bất liệu quan binh nhất kiến nhĩ chúng. Phấn dũng sát lục. Nhĩ thủ hạ nhân đẳng. Hốt nan thúc thủ tựu phọc. Hựu trí giang kiều chiết đoạn. Quan binh chí hữu tổn thương. Bất thắng hoàng cụ. Dĩ lũ thứ khiển nhân khấu quan thỉnh tội. Tịnh tống hồi vị xuất quan binh. Kỳ tường hại đề trấn chi nhân. Nghiệp mục đổ chính pháp.
Bản ứng cung nghệ khuyết đình. Trần tình thỉnh tội. Quốc nội sơ li binh cách. Nhân tình hoàng hoặc. Thượng vị an tập. Cẩn khiển thân điệt Nguyễn Quang Hiển. Tùy biểu nhập cận.
Tịnh cứ Nguyễn Quang Hiển bẩm xưng. Nhĩ sĩ quốc sự sảo định. Thượng khất thân tự đáo kinh chiêm cận đẳng ngữ. An Nam Lê thị lập quốc dĩ cửu. Thả thần sự thiên triều. Khác cộng chức cống. Bách hữu dư niên. Tố trứ cung thuận. Nhĩ tại Quảng Nam. Tòng tiền tịnh vị tu triều cống. Thượng niên Lê Duy Kỳ mẫu thê. Phó quan khống tố. Dĩ nhĩ cấu loạn xứng binh. Chiếm cứ kỳ quốc. Chí Lê thị điên bái lưu ly. Dụ thỉnh cứu viện.
Thử sự vi thiên triều tự tiểu tồn vong. Thể thống du hệ. Thị dĩ tiền nhiệm đốc thần Tôn Sĩ Nghị. Tự thỉnh đái binh xuất quan. Kỳ sở biện thậm chính. Tịnh vô bất hợp. Nhĩ tuy tằng khiển nhân khấu quan biện tố. Ðãn thủ biên chi thần. Hướng lai chỉ tri An Nam hữu Lê. Nhi vô tri hữu Nguyễn. Tương nguyên bẩm bác hồi. Sở biện bản chính.
Nhiên đốc thần Tôn Sĩ Nghị tấu khắc phục Lê thành chi hậu. Trẫm tức dĩ Lê thị cận niên quốc nội đa cố. Lê Duy Kỳ hựu phúc nọa khiếp vô năng. Ưu nhu phế trì. Khán lai thiên tâm cánh hữu yếm khí Lê thị chi ý.
Trẫm tòng lai biện lý thứ vụ. Vô bất thuận thiên nhi hành. Tùy kinh dụ tri Tôn Sĩ Nghị. Lê thành ký phục. Ðương tức triệt binh. Tịnh bất lệnh kỳ phục chí Quảng Nam. Vấn nhĩ tiền thử xứng binh cấu hấn chi tội dã.
Nãi Tôn Sĩ Nghị ư khắc phục Lê thành hậu. Vị năng tuân chỉ tốc triệt. Tại bỉ đam diên nhất nguyệt hữu dư. Tư nhĩ suất chúng chí Lê thành. Dục hướng Lê Duy Kỳ tuân vấn.
Quan binh tại bỉ. Khải hữu tọa thị chi lý. Toại nhĩ phấn dũng tiếp chiến. Nhĩ chúng úy tử để cự. Chí thương ngã quan binh. Chí đề trấn đẳng chức ti tiễu ngự. Kỳ lâm trận tổn khu. Câu kham gia mẫn. Dĩ tòng ưu nghị tuất. Tương Hứa Thế Hanh phong dĩ bá tước. Tổng binh nhị nhân. Giai dư thế chức. Tịnh nhập Chiêu Trung Từ. Dĩ thị tưởng lệ.
Nhĩ dĩ An Nam đầu mục. Cảm ư kháng cự quan binh. Tường hại đề trấn đại viên. Hoạch tội thậm trọng. Thị dĩ [29b] tương Phúc Khang An điều nhiệm Lưỡng Quảng tổng đốc. Nguyên lệnh điều tập các lộ đại binh. Chỉnh quân vấn tội. Ðãn niệm nhĩ lũ thứ khiển nhân khấu quan thỉnh tội. Tịnh ư vị xuất quan binh. Thiện vi thu dưỡng. Kính cẩn tống hồi. Thị nhĩ thượng tri úy cụ hối tội. Tùy mệnh đốc thần Phúc Khang An đẳng. Tạm hoãn tiến thảo.
Kim nhĩ sở tiến biểu văn. Dĩ nhĩ dữ Lê thị tịnh vô thượng hạ chi phận. Thả xưng tường hại quan viên chi nhân. Nghiệp mục đổ chính pháp đẳng ngữ. An Nam tịch tại hải tưu. Nhĩ dữ Lê thị hữu vô danh phận. Nguyên vô biện chứng. Hiện tại câu bất gia thâm cứu. Kỳ tường hại đề trấn chi nhân. Tự do lâm trận chi tế. Bỉ thử vị năng biện thức. Nhi Hứa Thế Hanh đẳng phục phấn bất phản cố. Dĩ chí thâm nhập tổn khu. Nhĩ chúng thượng phi hữu tâm can phạm. Sở xưng mục đổ chính pháp chi ngữ. Trẫm liên nhữ thành tâm hối tội. Bất phục thâm cứu hĩ.
Nhĩ ký phụ trách giảo trọng. Ứng cung nghệ khuyết đình tạ tội. Nhân quốc nội phủ li binh cách. Nhân tình hoàng hoặc. Tiên khiển nhĩ điệt Nguyễn Quang Hiển tùy biểu nhập cận. Thực vi cung cẩn tiểu tâm. Khả dĩ xá nhĩ tiền tội. Bất gia tiến thảo. Dĩ lệnh Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp. Hộ tống nhĩ điệt Nguyễn Quang Hiển lai kinh chiêm cận.
Ðãn nhĩ tuy tự tri hối cụ. Kỳ kháng cự quan binh. Thương cập đề trấn chi cữu. Cứu nan giải miễn. Hiện tại thượng vị thân thân nghệ khuyết. Thỉnh tội khất ân. Cự tư ngưỡng yêu phong hiệu. Thiên triều vô thử thể chế.
Nhĩ ký vị liệt phiên phục. Sở hữu cống vật. Diệc bất tiện thu nạp. Nhưng trứ lãnh hồi. Nhĩ ký dục thâu thành nạp khoản. Thân nghệ khuyết đình. Càn Long ngũ thập ngũ niên bát nguyệt. Giới trẫm bát tuần vạn thọ. Duy thời cự lệnh hựu việt niên dư. Nhĩ quốc nội diệc đương an tập. Tức khả bẩm tri đốc thần. Thân tự phó kinh. Dĩ toại chiêm vân tựu nhật chi tư.
Kỳ đề trấn đẳng. Tuy hệ lâm trận vô tâm. Ngộ hành thương hại. Cứu nhân nhĩ dữ Lê thị cấu nạn sở chí. Nhĩ diệc đương ư An Nam địa phương. Kiến lập từ vũ. Xuân thu kiền tế. Thứ khả sảo thục tiền khiên. Tòng tiền Tây Tạng tư sự thời. Biến khởi thảng thốt. Trú Tạng đại thần Phó Thanh, Thập Bố Ðôn đẳng. Tằng tổn khu dĩ tuẫn. Bình định hậu. Cai xứ nhân chúng vi chi kiến từ chí tế. Chí kim do trứ linh cảm. Nhĩ năng khác tuân chiếu biện. Bất đặc Hứa Thế Hanh đẳng tử sự chi tâm. Ðắc dĩ sảo ủy. Tức trung ngoại thần dân. Diệc khả cộng dụ nhĩ hối tội qui phụ chi thành. Giới thời trẫm giám nhĩ úy cảm khổn thầm. Tự tất cách ngoại gia ân. Hoặc tức phong dĩ vương tước. Nhĩ thế thế tử tôn. Khả dĩ trường thủ An Nam. Bỉ thời tái trình tiến cống vật. Diệc tức khả thưởng thu. Nhưng đương gia chi hậu tứ. Dĩ thị ưu quyến.
Trẫm lâm ngự ngũ thập dư niên. Phàm thứ bang phiên bộ. Vô bất đãi dĩ thành tín. Tức như tòng tiền bình định Chuẩn Cát Nhĩ thời. Ách Lỗ Ðặc thai cát Xá Lăng. Tằng tương phó đô thống Ðường Khách Lộc tường hại. Ðào chí Nga La Tư địa phương. Tự ư Thổ Nhĩ Hỗ Ðặc đầu thuận thời. Xá Lăng tức tùy đồng đầu tiến. Trẫm niệm kỳ hối tội chi tâm. Ðặc gia ân hựu. Nhưng phong vương tước. Thưởng cấp du mục địa phương cư trụ. Khả kiến trẫm phủ tuy phương hạ. Vô bất nhân chí nghĩa tận.
Huống Lê Duy Kỳ nhu nọa vô năng. Khí ấn đào thoán. Nhược luật dĩ thiên triều thiện ly chức thủ chi điều. Thượng đương trọng trị kỳ tội. Kim niệm y hệ thuộc ngoại phiên. Cẩn chỉ vô năng. Thượng vô vi phạm. Bất nhẫn gia chi tru lục. Lệnh tại Quế Lâm tỉnh thành an tháp. Ðoạn vô thừa nhĩ nhập cận. Phục tương Lê Duy Kỳ tống hồi An Nam. Lệnh kỳ chủ quốc chi lý.
Dĩ dụ đốc thần Phúc Khang An đẳng. Chuyển sức bạn tống quan viên. Ðồng nhĩ điệt Nguyễn Quang Hiển. Ư kinh quá Quế Lâm tỉnh thành chi tiện. Thân hành khán thị Lê Duy Kỳ quang cảnh. Tịnh lệnh nhĩ điệt tường suất ký nhĩ tri suất.
Tư đặc tứ nhĩ trân châu thủ xuyến nhất quải. Nhĩ đương để thừa ân mệnh. Hướng hóa canh tân. Dĩ ký vĩnh ưng ác quyến.
Miễn chi.
Dịch Nghĩa:
Cứ theo Hiệp Biện đại học sĩ tổng đốc Lưỡng Quảng tước Công là Phúc Khang An tâu lên thì ngươi đã sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển kính cẩn đem cống biểu đến cửa quan xin hàng. Lại đem nguyên biểu trình lên ngự lãm.
Trẫm xem trong biểu của ngươi nói là ngươi vốn đã có đất Quảng Nam, không phải có danh phận trên dưới với họ Lê. Năm ngoái đã từng sai người gõ cửa quan nói rõ duyên do việc hiềm khích với họ Lê nhưng biên thần trả về, không chịu đề đạt rồi đem quan binh xuất quan chinh tiễu, tiến thẳng tới Lê thành.
Tháng Giêng năm nay, ngươi đến Lê thành muốn tra hỏi Lê Duy Kỳ vì sao lại mời đại binh đến, không ngờ quan binh vừa thấy quân của ngươi đã xông tới chém giết. Các thủ hạ của ngươi không thể thúc thủ chịu trói, lại thêm cầu trên sông gãy nên quan binh bị tổn thương. Ngươi xiết nỗi hoảng sợ nên đã mấy lần sai người gõ cửa quan chịu tội, lại trả về các quan binh chưa kịp xuất quan còn những ai giết hại đề trấn thì đã chính mắt trông thấy chính pháp rồi.
Bản thân ngươi muốn đích thân đến nơi khuyết đình, trần tình chịu tội nhưng vì nước mới qua cơn binh lửa, nhân dân còn bàng hoàng chưa được an tập nên kính cẩn sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển đi theo biểu văn nhập cận.
Lại theo Nguyễn Quang Hiển bẩm xưng, ngươi đợi khi nào quốc sự tạm yên khi đó sẽ đích thân đến kinh đô chiêm cận. Họ Lê ở nước An Nam lập quốc đã lâu, lại thờ thiên triều rất kính cẩn giữ phận chức cống trên một trăm năm qua, rất là cung thuận. Ngươi ở Quảng Nam từ trước đến giờ chưa từng triều cống. Năm ngoái mẹ và vợ Lê Duy Kỳ đến cửa quan tố cáo rằng ngươi nổi loạn đưa quân chiếm lấy nước nên họ Lê phải bôn ba tan tác nên xin cứu viện.
Việc đó là thể thống tự tiểu tồn vong của thiên triều nắm giữ nên tổng đốc tiền nhiệm Tôn Sĩ Nghị tự mình xin đưa binh xuất quan, việc làm như thế rất là chính đáng, không có gì không hợp. Ngươi tuy đã từng sai người gõ cửa biện bạch việc tố cáo nhưng kẻ bầy tôi giữ biên cương chỉ biết rằng xưa nay nước An Nam có họ Lê chứ không biết có họ Nguyễn nên đem nguyên bẩm trả về, làm như thế vốn cũng phải.
Khi đốc thần Tôn Sĩ Nghị tâu rằng đã khắc phục được Lê thành, trẫm thấy ngay họ Lê những năm gần đây có nhiều biến cố, Lê Duy Kỳ lại là người nhút nhát vô năng, nhu nhược lười biếng, xem ra lòng trời đã chán ghét muốn bỏ họ Lê rồi.
Trẫm xưa nay biện lý công việc, chuyện gì cũng phải thuận thiên nhi hành nên đã gửi dụ cho Tôn Sĩ Nghị rằng nay Lê thành đã thu phục, vậy lập tức triệt binh, cũng không ra lệnh cho y phải tiến tới Quảng Nam để hỏi tội tại sao đem quân làm loạn.
Thế nhưng Tôn Sĩ Nghị lấy lại được Lê thành lại không tuân chỉ triệt binh, ở nơi đó lần lữa đến hơn một tháng khiến cho ngươi kéo quân đến Lê thành ý muốn tra hỏi Lê Duy Kỳ.
Quan binh đóng ở đó không lẽ ngồi xem nên ra sức tiếp chiến, quân của ngươi sợ chết chống cự đến nỗi làm chết quan binh của ta cho đến cả đề trấn và các quan chức. Việc đánh trận mà tử vong quả là đáng thương nên đã theo thể lệ mà ưu tuất, phong Hứa Thế Hanh lên chức bá tước, tổng binh hai người đều cho con thế chức lại được đưa vào Chiêu Trung Từ [昭忠祠] để tỏ lòng tưởng lệ.
Ngươi là đầu mục nước An Nam vậy mà dám kháng cự quan binh, giết hại đề trấn các viên chức lớn như thế là gây tội rất nặng nên trẫm đã điều nhiệm Phúc Khang An sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng, vốn ra lệnh cho y điều tập các lộ đại binh, chỉnh quân vấn tội. Thế nhưng nghĩ đến ngươi mấy lần sai người gõ cửa quan tạ tội, còn các quan binh chưa về được đều thu dưỡng đầy đủ, kính cẩn đưa về. Vậy là ngươi biết sợ hãi hối tội nên trẫm đã ra lệnh cho đốc thần Phúc Khang An tạm hoãn tiến thảo.
Nay ngươi đã tiến biểu văn nói rằng ngươi và họ Lê vốn không có phận trên dưới, lại nói những người giết hại quan binh đã chính mắt trông thấy bị đem ra chính pháp. An Nam ở nơi góc biển, ngươi và họ Lê có hay không danh phận, vốn chẳng có chứng cớ gì nay không tra cứu thêm nữa. Còn những người sát hại đề trấn ấy là lâm trận bên này không biết bên kia mà Hứa Thế Hanh thì quyết sống mái tiến vào sâu nên mất mạng, người của ngươi cũng không có tâm phạm tội bảo rằng chính mắt trông thấy chính pháp thì trẫm thương ngươi thành tâm hối tội nên cũng không tra cứu thêm.
Ngươi nay đang mang trọng nhiệm, muốn đích thân nghệ khuyết đình tạ tội nhưng vì nước vừa mới binh đao, lòng người hoang mang nên sai cháu ngươi là Nguyễn Quang Hiển tùy biểu nhập cận trước, thật là cẩn thận cung kính nên có thể tha cho tội cũ, không tiến thảo nữa. Trẫm đã ra lệnh cho Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp hộ tống cháu ngươi Nguyễn Quang Hiển đến kinh chiêm cận.
Thế nhưng tuy ngươi đã biết hối hận sợ hãi, việc kháng cự quan binh, làm chết đề trấn thì khó mà giải miễn. Hiện nay ngươi chưa đích thân nghệ khuyết để tạ tội cầu ân đã vội vàng xin phong hiệu thì thiên triều không có thể chế đó.
Ngươi chưa được liệt vào hàng phiên phục mà đã mang cống vật nên không tiện thu nạp vậy nên lãnh về. Ngươi quả có dạ thâu thành nạp khoản, đích thân đến khuyết đình thì đến tháng Tám năm Càn Long thứ 55 là lễ Bát Tuần Vạn Thọ của trẫm, khi đó còn hơn một năm nữa, lúc đó việc trong nước của ngươi cũng đã an tập rồi thì có thể bẩm cho đốc thần biết để đích thân đến kinh đô cho toại lòng chiêm vân tựu nhật.
Còn như các đề trấn tuy là không chủ tâm khi lâm chiến nên sát hại lầm nhưng cũng vì ngươi và họ Lê gây chuyện mà ra. Vậy ngươi hãy kiến lập ở An Nam một ngôi đền, xuân thu cúng tế có thế mới chuộc được lỗi xưa. Trước đây có việc ở Tây Tạng [西藏] bất ngờ biến đổi, đại thần trú đóng ở đây là Phó Thanh [傅清] và Thập Bố Ðôn [拾布敦] cũng đã tuẫn nạn. Sau khi bình định, dân chúng các nơi đó cũng đã lập đền cúng tế, đến nay hương khói vẫn còn. Vậy ngươi cũng nên thành kính tuân theo mà làm để cho tấm lòng của Hứa Thế Hanh cũng có chút an ủi, mà nhân dân trong ngoài cũng biết rõ việc ngươi thành tâm hối tội qui phụ để trẫm thấy ngươi có bụng thiết tha cách ngoại gia ân phong cho vương tước để đời đời con cháu trường thủ An Nam, khi đó ngươi lại trình tiến cống vật thì lập tức sẽ thu ngay mà lại còn ban thưởng hậu hĩ để tỏ lòng ưu quyến.
Trẫm lên ngôi hơn 50 năm qua, những việc của phiên bộ không gì là không thành tín, chẳng hạn như trước đây bình định Chuẩn Cát Nhĩ, thai cát Ách Lỗ Ðặc [厄魯特] là Xá Lăng [舍楞] đã từng giết hại phó đô thống Ðường Khách Lộc [唐喀禄] rồi chạy trốn đến Nga La Tư [俄羅斯]. Ðến khi Thổ Nhĩ Hỗ Ðặc [土爾扈特] đầu thuận, Xá Lăng cũng đi theo, trẫm nghĩ đến tấm lòng hối tội đã đặc biệc gia ân, phong cho tước vương, thưởng cho đất du mục để ở, đủ thấy trẫm phủ ngự các nước không lúc nào là không nhân chí nghĩa tận.
Huống chi Lê Duy Kỳ hèn yếu vô năng, bỏ ấn chạy trốn, nếu theo luật của thiên triều về việc tự tiện rời bỏ chức vụ thì đã trị tội thật nặng nhưng nghĩ tình y là ngoại phiên, chỉ là vô năng chứ không vi phạm chẳng nỡ tru lục nên an tháp tại tỉnh thành Quế Lâm chứ không phải nhân lúc ngươi nhập cận mà đem Lê Duy Kỳ đưa trở về An Nam cho làm chủ nước đâu.
Trẫm đã dụ cho đốc thần Phúc Khang An chuyển sức cho các quan viên đi theo với cháu ngươi Nguyễn Quang Hiển khi nào đi ngang qua tỉnh thành Quế Lâm tiện thể thân hành đến xem nơi ăn chốn ở của Lê Duy Kỳ, lại dặn cháu ngươi trình lại cho tường tận.
Nay đặc biệt ban cho ngươi một vòng đeo tay bằng trân châu. Ngươi nay đã nhận được ân mệnh, vậy hãy hướng hóa canh tân để mãi mãi nhận được quyến cố tràn đầy của trẫm.
Hãy cố lên.
Bỏ ra ngoài những bịa đặt cố ý mà hai bên cùng biết nhưng cốt cho qua chuyện, ngoài việc xác định không yểm trợ Lê Duy Kỳ và chấp thuận cho Nguyễn Quang Hiển lên kinh đô, vua Càn Long còn ban cho Nguyễn Quang Bình một vòng trân châu coi như công nhận Nguyễn Quang Bình đã ở trong vòng phiên thuộc, tuy danh phận chưa chính thức ban phát.
Trong khoảng thời gian hơn 2 tháng [từ tháng Ba đến tháng Năm], những biến chuyển dồn dập đan kẽ nhau nên ngờ rằng những đòi hỏi của nhà Thanh không có chủ đích hay mục tiêu rõ rệt, phần lớn được nêu ra cho đủ bộ hơn là thực tâm muốn thế.
Tính theo thời gian, không biết những yêu cầu có được đưa ra theo một lịch trình hay chỉ là những thăm dò nhằm gia tăng sức ép lên triều đình Quang Trung. Tuy nhiên, trong tư cách đàm phán, Thanh triều đã không dấu được những nhượng bộ bất ngờ và đôi khi ngoài mong đợi. Khi nghe tin phái đoàn An Nam đã gặp Phúc Khang An, vua Càn Long hoan hỉ gửi dụ sau đây cho Phúc Khang An, Tôn Vĩnh Thanh và Hải Lộc:
Lần này Nguyễn Huệ lại sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển đem biểu đến xin hàng, tình từ so với trước đây cung thuận gấp bội, quả là từ lòng chí thành sợ uy nên nay đã minh giáng sắc dụ gửi lại.
Phúc Khang An hãy lập tức ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển sai người kính cẩn đem về, giao cho Nguyễn Huệ đọc đợi khi nào có tin tức hãy tâu lên, đợi chỉ tuân hành.
Còn Nguyễn Quang Hiển khẩn khoản xin được tiến kinh chiêm cận thì chuẩn thuận cho lai kinh. Hiện nay theo lời tâu của Phúc Khang An đã bảo Nguyễn Quang Hiển trở về Lạng Sơn. Phúc Khang An nhận được chỉ này thì lại ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển từ Lạng Sơn khởi trình tiến kinh, nên tính toán ngày giờ nhưng cũng không phải gấp gáp, miễn sao ngoài 20 tháng Bảy đến được Nhiệt Hà. Khi đó chư vương công thai cát Mông Cổ cùng đến triều cận nên Nguyễn Quang Hiển thấy được cảnh ”xa thư nhất thống, vạn quốc hưởng vương chi thịnh”[10] sẽ cùng chư vương công thai cát vinh dự vào dự yến thì càng hay hơn.
Lại cũng ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp cùng đi lên kinh, đi qua đường Quế Lâm để cho Nguyễn Quang Hiển được gặp mặt Lê Duy Kỳ, lại bảo cho Nguyễn Quang Hiển biết rằng vì Lê Duy Kỳ đã làm mất ấn tín mà đại hoàng đế trùng ban [ban cho lần thứ hai], theo điều luật đúng ra sẽ bị trị tội, nhưng vì nhiều đời cung thuận, lại không vi phạm nên tha chết mà được an tháp, lẽ nào sau này còn được trở về Lê thành làm chủ nước nữa.
Còn Nguyễn Huệ có nói là đợi sau khi mọi việc tạm yên, xin được sang năm đích thân sang kinh đô chiêm cận, nếu quả có dạ hướng hóa thâu thành, bó thân nghệ khuyết, đại hoàng đế ắt sẽ gia ân vượt mức, hoặc ban cho vương tước ngay để con cháu đời đời làm chủ An Nam không chừng, nếu không thì cũng phong thưởng thấm nhuần, vậy hãy ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển đem các điều đó, nói rõ cho Nguyễn Huệ biết.
Sang năm khi nào Nguyễn Huệ khởi trình, Phúc Khang An hãy minh bạch cho y hay, bản bộ đường sẽ cùng đi với ngài, có như thế Nguyễn Huệ mới kiên tâm vui vẻ. Thêm nữa, bài văn ngự chế An Nam ký sự, trước đây đã sao cho Phúc Khang An, nay cũng tuyên thị cho Nguyễn Huệ đọc để cho rõ ý của trẫm. Nếu như Phúc Khang An đã phát vãng thì thôi, còn như chưa gửi đi thì không cần trả về coi như không nói đến.
Phúc Khang An lại tâu rằng, nơi quan ải nay hạ chướng đang nhiều, Tôn Sĩ Nghị không cần phải ở lâu thêm, nên về Nam Ninh điều dưỡng ít ngày rồi hãy lên đường, vậy cứ như thế mà làm. Sau này khi Tôn Sĩ Nghị khởi thân thì cũng cứ đi thong thả, không cần phải gấp gáp làm gì cho mệt nhọc.
Trước đây trẫm đã mấy lần giáng chỉ ra lệnh cho Phúc Khang An tự liệu định hoặc là di chuyển về Nam Ninh, Thái Bình, hoặc trở về Quế Lâm để chỉ huy mọi việc, chỉ này chắc cũng đã nhận rồi. Nay Nguyễn Quang Hiển cũng đã đến cửa quan, đại cục đã định, Phúc Khang An hãy tuân theo chỉ trước di chuyển vào nội địa Quảng Tây là nơi thủy thổ bình hòa, dễ dàng điều nhiếp để tỏ lòng thể tuất của trẫm.
Nay đã đến tiết khí mới của trời đất, trẫm thưởng cho Phúc Khang An một đôi đại hà bao, hai đôi tiểu hà bao, bốn cái túi hương, còn Hải Lộc và Tôn Vĩnh Thanh mỗi người thưởng cho một đôi đại hà bao, hai đôi tiểu hà bao để tỏ lòng ưu quyến.[11]
Hành trình
Sau khi gặp quan lại nhà Thanh, Nguyễn Quang Hiển và phái đoàn quay vể châu Văn Uyên rồi hôm sau [20 tháng Tư] trở về Lạng Sơn lên đường đi Thăng Long. Trong một tháng sau đó, Nguyễn Hữu Trù cũng hai lần lên Nam Quan tiếp xúc với Thang Hùng Nghiệp để trao đổi tin tức.
Trong thời gian đó, sắc dụ chấp thuận của vua Càn Long kèm theo chuỗi vòng trân châu ban cho Nguyễn Huệ cũng tới Trấn Nam Quan, Thang Hùng Nghiệp liền cho người đến Lạng Sơn báo cho Nguyễn Hữu Trù biết tin để sắp xếp trần thiết Ngưỡng Đức Đài và chuẩn bị long đình[12] nghinh đón. Ngưỡng Đức Đài là toà nhà ở phía nước ta đối xứng với Chiêu Đức Đài ở bên kia Nam Quan của phía Trung Hoa. Hiệp trấn Lạng Sơn cũng đưa một số đông dân phu lên tu bổ lại đường sá, cầu cống từ trấn thành đến Nam Quan. Như vậy là đúng một tháng, khoảng cách vừa đủ để chạy trạm theo lối hoả tốc [600 dặm một ngày] lên kinh đô rồi quay lại chứng tỏ khi tin vừa đến nơi, vua Càn Long đã gửi ngay dụ chỉ xuống Quảng Tây cho phép phái bộ tiến kinh.
Sau khi báo cáo tình hình cho vua Quang Trung, Nguyễn Quang Hiển trở lên Lạng Sơn. Ngày 21 tháng Năm, nước ta đã chuẩn bị xong các loại lễ vật và cống phẩm để sẵn sàng lên đường. Theo Việt Nam Tập Lược của Từ Diên Húc thì lễ vật tạ ơn của nước ta bao gồm sừng tê hoa, sừng tê đen, ngà voi, trầm hương, tốc hương năm loại.
Ngày 25 tháng Năm[13] Nguyễn Quang Hiển nhận được lệnh vua Càn Long thuận cho lên kinh đô bệ kiến và phải đi gấp cho kịp đến kinh đô vào mùa thu để dự lễ thánh tiết (sinh nhật vua Càn Long). Thang Hùng Nghiệp ra lệnh cho các binh sĩ trấn đóng ở Nam Quan xếp thành hàng ngũ, dựng bày cờ sí ở Chiêu Ðức Ðài rồi mời sứ bộ nước ta sang đón sắc thư và quà của vua Thanh trao cho trấn thủ Lạng Sơn Ðinh Công Thái (丁公彩) đem về Thăng Long. Về chuyến đi này, Vũ Huy Tấn thuật lại như sau:
Cuối tháng Tư năm đó, ta về Mộ Trạch để từ biệt song thân, sau tiết Trùng Dương thì khởi hành bắt đầu một chuyến đi vạn dặm. Ngày 25 tháng Năm, ta lại lên đến Nam Quan thì nhận được chỉ cho phép sứ thần theo đường bộ để đến hành cung ở Nhiệt Hà để kịp tham dự đại lễ thánh tiết. Ấy là lần đầu tiên được như vậy. [14]
Ngày 27 tháng Năm, phái đoàn nước ta do Nguyễn Quang Hiển cầm đầu, tất cả là 21 người, từ nhà khách của tỉnh Quảng Tây do Thang Hùng Nghiệp dẫn đường đi lên kinh đô nhà Thanh. Hai mươi mốt người đó gồm có:[15]
Đại diện quốc trưởng Nguyễn Quang Hiển (阮光顯)
– Ba vị sứ thần:
1. Chánh sứ Nguyễn Hữu Trù (阮有晭)
2. Phó sứ Vũ Huy Phác[16] (武輝璞)
3. Phó sứ Nguyễn Ninh Trực (阮寧直)
– Hành nhân 5 người:
1. Trương Gia Nghiễm (張嘉儼)
2. Phạm Bá Nhuận (范伯潤)
3. Tạ Hữu Ðịnh (謝有定)
4. Nông Ðình Cẩn (農廷謹)
5. Hoàng Huy Dực (黃煇翼)
– Tòng nhân 12 người:
1. Hồ Văn Tòng (胡文從)
2. Nguyễn Công Tuyết (阮公雪)
3. Nguyễn Văn Cự (阮文鉅)
4. Nguyễn Văn Bản (阮文本)
5. Nguyễn Văn Cơ (阮文璣)
6. Hoàng Văn Thành (黃文成)
7. Lê Văn Trọng (黎文仲)
8. Ngô Viết Kiệt (吳曰榤)
9. Nguyễn Văn Uyển (阮文琬)
10. Nguyễn Hữu Ðễ (阮有悌)
11. Trần Văn Dũng (陳文勇)
12. Ðỗ Ðình Lập (杜廷立)
Việc Nguyễn Quang Hiển dẫn đầu một phái bộ 21 người từ Quảng Tây lên Bắc Kinh đã đặt ra một vấn đề ngoại giao khác với một sứ bộ bình thường. Theo Khâm Định An Nam Kỷ Lược, vua Càn Long chỉ thị cho Phúc Khang An soạn một nghi thức đón tiếp gửi cho quan lại trên đường đi để các nơi thi hành cho đồng nhất. Nghi lễ đó bao gồm cả việc chào hỏi khi gặp nhau lẫn các loại yến tiệc, diễn kịch và hộ tống trong quản hạt của mình dựa theo việc năm trước tiếp đãi phái bộ Miến Điện.
Theo qui chế, một sứ đoàn ngoại quốc chỉ được địa phương đưa qua quản hạt nhưng lần này vua Càn Long chỉ định Thang Hùng Nghiệp làm “bạn tống” [người đi cùng] cho phái đoàn, sắp xếp di chuyển, nghỉ ngơi … và thay mặt triều đình tiếp xúc để điều động lễ nghi.
Vì Thang Hùng Nghiệp là một văn quan nên Phúc Khang An đặc biệt phái thêm Ðức Khắc Tinh Ngạch (德克精額) là phó tướng mới của hiệp Tân Thái tỉnh Quảng Tây cùng đi, còn bản thân ông ta khởi trình từ Nam Ninh, đến Quế Lâm ngày 11 tháng 5 (nhuận), và hôm sau, 12 tháng 5 thì Tôn Vĩnh Thanh cũng tới. Việc đích thân tổng đốc Lưỡng Quảng và tuần phủ Quảng Tây cùng đến Quế Lâm để bắt ép vua Lê và những người đi theo phải “thế phát cải phục”, không phải chỉ vì lý do cưỡng chế luật lệ “ở đất Trung Hoa thì phải theo tục Trung Hoa” mà để minh xác với triều đình Tây Sơn về việc họ không còn yểm trợ nhà Lê nữa. Tài liệu nước ta cũng còn lưu lại một số thư của quan nhà Thanh thúc đẩy Nguyễn Quang Hiển viết thư yêu cầu vua Quang Trung xác định sẽ sang Trung Hoa vào năm sau.[17]
Ở Quế Lâm, Phúc Khang An đã sắp đặt để cho phái đoàn An Nam được tận mắt chứng kiến vua Chiêu Thống và những người đi theo nay là dân thiên triều được định cư [an tháp] tại Trung Hoa, đã thế phát cải phục (cạo tóc, đổi y phục) và thúc ép Nguyễn Quang Hiển viết thư gấp cho vua Quang Trung giao cho vệ úy Hồ Văn Tòng theo đường dịch trạm về Thăng Long rồi lại đích thân đem thư trả lời quay trở lại giao cho phái đoàn mang đi.
Gặp Lê Duy Kỳ
Trước đây, khi muốn gia tăng tốc độ hòa nghị, Tôn Sĩ Nghị đã sai Thang Hùng Nghiệp bí mật liên lạc với nước ta tiết lộ rằng gia đình vua Lê Chiêu Thống đã đến Quảng Tây để dùng họ như một áp lực ngoại giao. Khi khẳng định rằng Thanh triều nay không còn ủng hộ họ Lê nữa được xem như một minh định đồng thời cũng là một hăm dọa nếu triều đình Tây Sơn không đi theo con đường họ đưa ra thì sẽ động binh lần nữa.
Việc vua Quang Trung chưa dứt khoát có sang chúc thọ hay không cũng tạo ra những vướng mắc. Vua Càn Long vẫn đinh ninh rằng Nguyễn Quang Bình sẽ sang Yên Kinh nhưng các quan lại ở Quảng Tây thì biết rằng lời hứa ỡm ờ “đợi khi đất nước ổn định sẽ sang triều kiến” chỉ là một lời hứa rơi chưa có gì chắc chắn.
Phúc Khang An cũng tưởng rằng trong tờ biểu cầu phong mà Nguyễn Quang Hiển đem đi sẽ minh xác điều đó nên khi thấy vẫn chưa đề cập đến việc này một cách minh bạch thì tổng đốc Lưỡng Quảng phải đưa ra một kế hoạch cụ thể hơn và cũng quyết liệt hơn:
– Thứ nhất, thông báo cho vua Chiêu Thống và những người đi qua rằng họ nay trở thành dân thiên triều và phải theo tục lệ Trung Hoa[18] nghĩa là phải cạo đầu thắt đuôi sam, mặc áo kiểu nhà Thanh và không còn cơ hội được đưa về nước nữa. Lê Duy Kỳ và nhóm nhà Lê được di chuyển từ Ninh Minh lên Quế Lâm cho xa biên giới để không thể liên lạc về trong nước tạo bất ổn và gây nghi kỵ cho triều đình Tây Sơn.
– Tiến thêm một bước, thay vì đi từ Minh Ninh bằng đường thủy sang Quảng Đông lên kinh đô, Phúc Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển theo đường bộ ngang qua Quế Lâm và sắp xếp cho Nguyễn Quang Hiển gặp Lê Duy Kỳ rồi yêu cầu viết thư rõ ràng việc gặp mặt đó cho người đưa về Nam Quan để chuyển tới Thăng Long đồng thời thúc ép Nguyễn Quang Hiển yêu cầu vua Quang Trung xác định yêu cầu xin nhập cận trong tờ biểu tạ ơn do một phái đoàn khác sẽ đưa sang khi nhận được chiếc vòng trân châu.
Ngày 19 tháng Năm [nhuận] Phúc Khang An gửi cho Nguyễn Quang Hiển bức thư sau đây:
Chú ngươi là Nguyễn [Quang Bình] vì cùng họ Lê tranh hấn[19], đắc tội với thiên triều. Ðại hoàng đế xét thấy vốn không có tâm kháng cự nên không chinh thảo lần nữa, lại chuẩn cho đầu thành[20] khâm ban sắc thư có đóng ngự tỉ cùng trân châu thủ xuyến và cho phép ngươi tiến kinh nhập cận[21]. Những gia ân vượt mức như thế chú ngươi chắc chẳng bao giờ dám nghĩ tới.
Cho đến lúc này, chú ngươi cũng chỉ mới dựng nước, nếu không có phong hiệu của thiên triều thì không thể chính danh định phận, yên là yên tạm mà thôi. Nếu chưa nhận được sắc thư thì việc trước mắt là danh mục bất chính, thủ hạ thần dân có theo cũng chỉ ở ngoài mặt còn trong lòng không phục làm sao có thể trông coi nhân dân để mà lập quốc được.
Bây giờ đại hoàng đế đã ban cho sắc thư có đóng ngự tỉ, lại hứa sẽ cho chú ngươi làm chủ An Nam, ấy là thiên triều phủ ngự vạn quốc đều có pháp độ. Chú ngươi trước đây hành sự thực không hẳn đã là vô tội, nhờ ơn đại hoàng đế lấy tấm lòng trời đất, xét thấy chú ngươi cùng họ Lê không có phận quân thần nên tha chuyện cũ ban cho ân trạch vạn phần, thực chẳng vì cầu may mà được.
Chú ngươi nếu có thiên lương và là người biết chuyện thì hẳn là cảm kích vinh hạnh, nếu như không đích thân đến kinh chiêm thiên ngưỡng thánh, khấu tạ hồng ân thì làm sao tỏ được tấm lòng sợ thiên triều, thờ nước lớn[22], thành kính cung thuận? Nếu nói rằng chưa được phong hiệu nên trong lòng ngượng nghịu, không mặt mũi nào mà cùng phiên vương các nước hân hoan tạ ơn thì việc đó đâu có khó gì, đợi khi chú ngươi tiến quan bản tước các bộ đường sẽ xin ban ấn cấp phong cho chính danh định phận, để chú ngươi đến kinh đô được cùng hàng với chư phiên vương thuộc quốc, lúc đó thật sủng vinh biết mấy.
Năm nay khi Tôn đốc bộ đường[23] còn ở Trấn Nam Quan, chú ngươi ba lần xin hàng, Tôn đốc bộ đường tâu lên nhưng chưa được ân chuẩn, đến khi qua bản tước các bộ đường, vì chú ngươi mà trần tình tâu xin thì liền được đại hoàng đế đặc biệt cho nhiều ân điển, lại ban thưởng ưu hậu.
Huống chi sang năm là lễ bát tuần vạn thọ là thịnh điển thiên tải nan phùng[24], chú ngươi đích thân đến kinh đô chúc ly triển cận[25] cũng là chuyện cát tường mỹ sự, thánh tâm ắt sẽ càng vui hơn nên ban thưởng rất nhiều[26] mà một cái vòng trân châu như lần này không thể nào sánh được.
Còn việc xin tứ ấn thụ phong thì bản tước các bộ đường sẽ vì chú ngươi mà hết sức đảm trách, đừng có ngờ vực gì nữa. Nếu như chú ngươi ngại rằng đường sá xa xôi, khí hậu nóng nực thì sang năm vào khoảng hạ tuần tháng hai khởi thân tiến quan thì lúc đó thời giờ cũng rộng rãi. Sau khi tiến quan rồi, từ châu Ninh Minh sẽ lên thuyền đi theo đường thủy đến thẳng kinh sư, như thế tránh được nóng nực, hành trình cũng gần. Ấy là ta vì chú ngươi mà tính toán, không gì tốt hơn nữa.
Còn Lê Duy Kỳ[27] thì đã cắt tóc đổi y phục cho làm dân thường, sau này không thể trở về nước được, chính mắt ngươi đã thấy rồi. Bản tước các bộ đường sợ chú ngươi không hiểu rõ nên đặc biệt mở lòng thành công bố để cho ngươi biết, vậy nhà ngươi nên viết lại kỹ càng gửi về cho chú ngươi để cho y an tâm hoan hỉ.
Tháng Năm nhuận, ngày mười chín giờ Mão.
Trát dụ.[28]
Công việc hoàn tất, Phúc Khang An tâu lên Bắc Kinh báo cáo công việc như sau:
Ðến ngày 18, bọn Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp hộ tống Nguyễn Quang Hiển đến tỉnh. Bọn thần ra lệnh cho họ đến quán xá để nghỉ tạm, một mặt truyền gọi Lê Duy Kỳ cùng những cựu thần có tên tuổi như bọn Hoàng Ích Hiểu vài ba người, đến công quán của thần Phúc Khang An chờ sẵn, sau đó ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp đưa bọn Nguyễn Quang Hiển đến gặp. Bọn họ vọng về cung khuyết hành lễ tạ ân tam quị cửu khấu xong, lại quay sang thần hành lễ nhất quị tam khấu. Thần ra lệnh cho họ ngồi một bên rồi cho họ biết rằng chú của ngươi Nguyễn Quang Bình trước đây đã tiến biểu văn, mong được thánh chúa trông xuống xét cho việc chú ngươi và họ Lê vốn không có phận quân thần, khi đại binh tiến thảo, vốn không dám có bụng kháng cự.
Nay đã được hoàng thượng ân chuẩn cho đầu thành, lại thương mến ban cho sắc thư, thưởng cho vòng trân châu. Cái ơn trời cao đất dày kia, chú của ngươi Quang Bình có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến. Còn Lê Duy Kỳ hiện nay đã được thu lưu ở nội địa, đại hoàng đế đã ra lệnh cho họ thế phát cải phục, xếp vào hạng dân thường, không thể nào còn trở về An Nam được nữa nên đặc biệt ra lệnh cho các ngươi được gặp nhau.
Nguyễn Quang Hiển nghe thần nói như thế bèn rời chỗ ngồi khấu đầu, vẻ mặt vui sướng nói rằng chú tôi là Quang Bình vốn là kẻ áo vải đất Tây Sơn, chưa từng giao thông với Trung Quốc, nhân vì việc tranh chấp với họ Lê mà phải nhọc đến đại binh để đến nỗi còn lưu lại vết tích kháng cự nên trong lòng áy náy, ngày đêm không yên. Chú tôi đã hiểu dụ mọi người trong nước, phàm gặp quan binh lạc đường rơi lại phía sau đều phải cấp cho họ quần áo giày dép lộ phí cơm ăn, hộ tống tiến quan. Tháng Giêng năm nay ở bờ sông nơi các vị đại nhân trận vong đã lập đàn cúng tế, quả là lòng thành hối tội úy thiên từ gan ruột. Nay được đại hoàng đế khoan ân vượt mức, thật còn hơn trời bể. Chú tôi Quang Bình khi nhận được sắc thư và đồ quí, ắt rất là vui sướng hân hoan gửi tạ biểu ngay.[29]
Bọn thần nghĩ Nguyễn Huệ lúc này mới vừa lập quốc, nếu như không được phong tước của thiên triều thì không thể nào là hùng trưởng được, thành thử sẽ phải gấp gáp cầu phong, ân cần bức thiết xuất tự chí thành.
Bọn thần sau đó lại tuân chỉ gọi Lê Duy Kỳ, ra lệnh cho gặp Nguyễn Quang Hiển. Y nói rằng tôi nay đã là dân thiên triều rồi, không còn điều gì phải nói với y nữa, còn bọn cựu thần Hoàng Ích Hiểu tuy có vẻ căm hận nhưng vì đông người đàn áp nên cũng không dám tỏ thái độ gì. Còn bọn Nguyễn Quang Hiển vừa thấy Lê Duy Kỳ thì vẻ mặt hân hoan, dường như bao nhiêu nghi ngại đều nhẹ nhõm.
Ngày 19 bọn Nguyễn Quang Hiển nghỉ lại tỉnh một ngày để các tòng nhân mua thêm quần áo giày dép. Ngày 20 tỉnh thành đãi yến một lần, lại cấp cho ngân lượng, vải vóc các thứ theo nghi văn thể chế, lại tuân chỉ chiếu theo lệ đúng như đãi các cống sứ Miến Ðiện hồi năm trước, không hậu hơn mà cũng không giản tiện.
Bọn họ về đến quán xá lập tức viết thư gửi báo cho Nguyễn Huệ biết, nhờ Thang Hùng Nghiệp chuyển trình. Bọn thần duyệt khán giao cho tòng quan là vệ úy Hồ Văn Tòng [胡文從] đem về tận mặt cáo tri Nguyễn Huệ mọi tình hình từ khi tiến quan đến nay. Bọn thần cũng phái người đưa y xuất quan.[30]
Tính từ khi khởi hành ở Nam Quan ngày 27 tháng Năm đến khi tới Quế Lâm ngày 18 tháng Năm [nhuận] là hơn 20 ngày. Theo tường thuật của Vũ Huy Tấn, phái đoàn được đi kiệu hoa, xuống thuyền thì có treo đèn đỏ để cho người ngoài biết có quan lại đang đi để các địa phương đón chào nên đâu đâu cũng được đón tiếp rất nồng hậu. Ông cũng thường nhắc đi nhắc lại là những ân điển đó đều là “lần đầu” [葢創恩也] để biết rằng ông rất hân hạnh. Cũng nên biết thêm cha của Vũ Huy Tấn là Vũ Huy Đĩnh, từng làm phó sứ sang Thanh năm Cảnh Hưng 32 (Càn Long 36, 1771) nên ông cũng có ít nhiều có kinh nghiệm từ phụ thân. Đến Nam Ninh, phái đoàn rời thuyền lên đi theo đường bộ đến Quế Lâm.
Ở đây phái đoàn được đi thăm chùa Tương Sơn [湘山] ngoài thành Toàn Châu (thuộc Quế Lâm). Chùa nằm trên lưng chừng núi, có tháp cao hơn 10 trượng đâm vào mây, ở cửa vào có biển bằng đồng viết ba chữ “Vô Lượng Động”, vào đại điện có biển viết bốn chữ “Chủ Nhân Thường Tại”, ngoài điện có biển viết “Sở Nam Đệ Nhất Thiền Lâm”.[31]
Trên danh nghĩa phái đoàn được tiếp đãi ân cần nồng hậu nhưng cũng là thời gian mà Phúc Khang An mưu tính ràng buộc triều đình Tây Sơn bằng cách: chiêu dụ nhóm Lê Quýnh sang Trung Hoa “bàn quốc sự” nhằm cô lập những nhóm chống đối để vua Quang Trung không thể lấy cớ việc nước chưa yên mà từ chối sang chúc thọ[32]. Vì bị cô lập ở một nơi không thông tin tức, cho tới đầu tháng Năm [nhuận], vua Lê và những người đi theo chưa biết gì về các diễn tiến ngoại giao nên vẫn hi vọng vào thiện chí “tự tiểu tồn vong” của thượng quốc.
Ngày 21 tháng Năm [nhuận], Nguyễn Quang Hiển gửi thư sai vệ úy Hồ Văn Tòng đem về Thăng Long kèm theo một bức thư Phúc Khang An gửi vua Quang Trung:
Trước đây nhờ ơn thánh chúa chiếu xuống lòng thành tha thiết của quốc trưởng nên khâm ban sắc thư, ân thưởng trân châu thủ xuyến[33]. Bản tước các bộ đường lập tức sai người kính cẩn mang đến Trấn Nam Quan giao cho Tả Giang đạo chuyển cho cháu ruột của quốc trưởng là Quang Hiển kính cẩn nhận lãnh rồi sai người đem đến Lê thành, lại soạn một hịch văn gửi kèm theo, hẳn là quốc trưởng đã sớm kính cẩn nhận lãnh và viết tạ biểu cho người mang đến cửa quan.
Cháu của quốc trưởng Quang Hiển và bồi giới[34] là Nguyễn Hữu Trù [阮有啁] ngày mười tám tháng này đi đến tỉnh thành Quế Lâm [桂林], đã được bản tước các bộ đường tiếp kiến, hỏi han về ăn uống đi đứng trên đường mọi việc đều ổn thỏa, những người đi cùng cũng đều khỏe mạnh.
Ngày hai mươi [20], thiết yến khoản đãi Quang Hiển cùng bồi giới[35], ai nấy ăn uống no nê vui vẻ rồi về công quán nghỉ ngơi. Chúng tôi cũng chuẩn bị cho họ mũ áo bằng sa mỏng để mặc trên đường đi cho mát mẻ, sảng khoái. Lại nghĩ đến sau này chiêm ngưỡng thiên nhan, ra khỏi kinh đô trở về nước thì đã vào cuối thu, khí hậu khi đó cần đồ ngự hàn nên trước khi đi cũng dự bị may sẵn các loại áo da và bông để mang theo. Lại ra lệnh cho Tả Giang đạo Thang [Hùng Nghiệp] lo liệu việc khởi trình cùng thông báo cho các địa phương trên đường đi để những nơi nào có đường thủy thông qua được thì lập tức dự bị thuyền để thừa tọa cho thoải mái.
Bản tước các bộ đường ngưỡng thể tấm lòng vỗ về chăm lo của đại hoàng đế đã gia ân vượt mực nên hết sức lo liệu cho chu đáo để bọn Quang Hiển đi đường dài sẽ không bị mệt mỏi, lại sai người đi theo là vệ úy Hồ Văn Tòng [胡文從] đem gia tín và tình hình mọi việc trở về nước kể lại cho quốc trưởng, hẳn quốc trưởng biết được sẽ vạn phần cảm kích thiên ân, sung sướng không biết chừng nào.
Lúc này trời đương mùa hạ là lúc nóng nhất, trong nước trên dưới có bình an không? Mùa xuân sang năm, bản tước các bộ đường sẽ ở tại Trấn Nam Quan đợi quốc trưởng để cùng lên kinh đô chúc ly triển cận[36], hưởng ân trạch của hoàng đế.
Sức ép và những thủ đoạn tinh vi của nhà Thanh khiến cho triều đình Quang Trung phải thay đổi ít nhiều trong tờ biểu cầu phong xác định sẽ sang chúc thọ. Bản văn sau cùng còn lưu lại trong KDANKL có đoạn như sau:
Trước đây thần đã sai cháu là Nguyễn Quang Hiển đến cửa quan, thay mặt hành lễ đã từng chính miệng cáo rằng đợi khi quốc sự tạm yên sẽ nhập cận kinh sư, tấm lòng chân thành của thần, chỉ biết sợ mệnh trời tuân theo thiên tử, là chuyện đương nhiên của chức phận vậy.
Cúi lạy thánh thiên tử trời sinh là bậc chí đức, vị lộc danh thọ, tất cả đều gồm đủ. Sang năm tháng Tám là dịp khánh tiết bát tuần vạn thọ, là thịnh sự cát tường, cả doanh hoàn đều vui mừng nếu như thần được hưởng chung ánh sáng của nhật nguyệt, cùng được vinh hoa đến chúc thọ thực là chí nguyện nên mong sao quốc sự sớm được yên phận, để đến khoảng xuân hạ sang năm có thể bẩm với tổng đốc Lưỡng Quảng chuyển tấu để cho phép chiêm cận cho thỏa lòng thành kính, mong được bệ hạ chiếu xuống nơi uyên động thì hân hoan cảm kích biết chừng nào.
Điểm quan trọng nhất trong biểu văn này là việc vua Quang Trung xin được qua chúc thọ vào năm Canh Tuất khiến cho vua Càn Long vô cùng hoan hỉ nên mọi ân sủng về sau đều hơn mực thường. Để trả lời việc xin được phong vương để khi sang Bắc Kinh không bị kém vế, vua Càn Long liền hạ chỉ cho hay khi Nguyễn Quang Bình đến Nam Quan sẽ được phong vương, vào triều được xếp ngang hàng thân vương ngoại phiên, đứng trên quận vương tông thất[37]. Thân vương là tước vị cao nhất của nhà Thanh chỉ sau hoàng đế.
Cách tiếp đãi của Thanh triều
Ngày mồng 6 tháng Năm nhuận, Quân Cơ Xứ theo lệnh vua Càn Long gửi một dụ chỉ xuống tất cả các quan lại địa phương trên đường đi của Nguyễn Quang Hiển để chỉ thị về việc tiếp đãi như sau:
Mới đây Nguyễn Huệ đã sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển đến trấn Nam Quan tiến biểu xin hàng lại khẩn cầu lên kinh đô nhập cận [triều kiến hoàng đế]. Trẫm đã giáng chỉ thuận cho lên kinh đô cốt sao cho trước ngày 20 tháng Bảy đến được Nhiệt Hà, lại ra lệnh cho Tả Giang Thang Hùng Nghiệp đi cùng, còn các đốc phủ ở những địa phương nào đi qua chi cấp cũng đừng phí phạm.
Nay nghĩ lại Nguyễn Huệ hối tội thành thực qui thuận vốn định đích thân đến cửa quan tự mình nạp khoản nhưng vì trong nước dân chúng vừa qua loạn lạc [甫罹] chưa được an tập nên không thể đi xa nên mới sai cháu ruột đến cửa quan lại xin tiến kinh chiêm cận, tình thế cấp bách nhưng thật là chí thành. Nguyễn Quang Hiển lại là cháu ruột của Nguyễn Huệ không thể sánh ngang với các đầu mục khác được, vậy những nơi đi qua việc chi ứng cũng không nên quá xa hoa nhưng cũng không nên giản lược.
Huống chi An Nam và Miến Điện hai bên tin tức qua lại nên lần này quá ư giản lược mà họ hay biết thì sẽ nghĩ rằng thiên triều phủ ngự ngoại di có phân ra dày mỏng, ấy không phải là đạo nhất thị đồng nhân [đối với ai ai cũng cùng một lỏng nhân]. Vậy hãy chiếu theo năm ngoái cống sứ Miến Điện đi qua tiếp đãi thế nào thì cũng như vậy không hơn mà cũng không kém.
Nếu như Nguyễn Huệ sang năm đích thân nghệ khuyết thì việc tiếp đãi so với Nguyễn Quang Hiển có hậu hĩ hơn một chút cũng không phải không được. Các đốc phủ hãy thể theo ý thương mến của trẫm mà sắp xếp biện lý. [38]
Tuân theo dụ chỉ của vua Càn Long, các quan địa phương ra sức làm đẹp lòng kim thượng bằng cách tu sửa đường sá cầu cống, chỗ nào mấp mô đều đắp cho bằng phẳng, các đầm hào doanh trại đều dọn dẹp sạch sẽ cho khách quan chiêm. Tại các nơi đóng quân cũng chọn những lính tráng khoẻ mạnh giao cho quần áo khí giới mới tập hợp thành đội ngũ chỉnh tề để khi phái đoàn đến ranh giới hai tỉnh thì đón rước. Sứ đoàn nước ta mỗi khi đến đâu lập tức tuần phủ nơi đó đem quan văn võ ra đón và hộ tống cho đến khi ra khỏi địa giới. Mỗi phủ tổ chức yến tiệc nhưng khi đến tỉnh thành ngoài yến tiệc đều có thêm các màn kịch [diễn tuồng] để tỏ đạo nhu viễn của hoàng đế. [39]
Cũng nên thêm, các sứ bộ nước ta trước đây đi theo đường sông, nay vì vua Càn Long muốn thêm long trọng nên cho đi đường bộ để quan viên có dịp gặp gỡ tiếp đãi và sứ đoàn nước ta cũng chứng kiến cảnh trù phú của Trung Hoa.[40]
Vì vai trò đặc biệt của Nguyễn Quang Hiển không phải như một phái đoàn phiên thuộc bình thường nên việc tiếp kiến cũng có tiêu chuẩn riêng. Vua Càn Long đặc biệt gửi dụ chỉ cho các đốc phủ trên đường phái đoàn đi qua để nhất loạt áp dụng nghi lễ mà Phúc Khang An đã thi hành ở Quảng Tây để các nơi thi hành cho đồng nhất.[41]
Theo tài liệu nhà Thanh, phái đoàn đi từ Nam Quan đến Ninh Minh đi vòng qua Quế Lâm để gặp gia đình Lê Duy Kỳ, ngày 22 tháng Năm [nhuận] từ Quế Lâm khởi trình theo đường thủy đi thẳng tới Trường Sa qua những địa phương như Đông An, Vĩnh Châu, Hoành Châu. Phái đoàn cũng thăm vách núi Binh Thư [兵書岩] ở hữu ngạn của ghềnh Xứng Vật [秤勿灘]. Vách đá cao hơn trăm trượng màu đỏ tục truyền là nơi Gia Cát Lượng xưa dùng binh.
Vũ Huy Tấn và mọi người cũng đi thăm Ngô Sơn (tên cũ Dương Ngô) [浯山] trên đó có Ngô Khê, Ngô Đình và Ngô Đài là ba thắng cảnh mà người đời xưng lả Tam Tuyệt[42]. Trong văn thơ của ông cũng còn những bài vịnh hồ Động Đình, sông Võ Xương, am Vạn Niên là những nơi đi ngang qua.
Ngày 4 tháng Sáu, phái đoàn đến tỉnh thành Trường Sa. Giờ Ngọ hôm đó, tuần phủ Hồ Nam Phố Sâm đưa tất cả các quan trong tỉnh ra đón, trần thiết nghi vệ và dàn đội ngũ tại đại đường tiếp kiến và cho Nguyễn Quang Hiển biết rằng “đại hoàng đế nghĩ tình các ông phụng sứ từ xa đến có bụng thành kính qui phục, lại là lần đầu triển cận nên thương xót mà ra lệnh cho các nơi tiếp đón hậu hĩ hơn bình thường”. Sau khi nghe thông sự dịch lại, Nguyễn Quang Hiển vui mừng vọng về cung khuyết khấu đầu tạ ơn[43]. Sau đó quan nhà Thanh mở tiệc đón chào, lại cho diễn kịch, lại đem các loại vải vóc sa đoạn, trù lăng (các loại vải khác nhau), trà thuốc, ngân bài ra biếu.
Ngày mồng 9 tháng Sáu, phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến huyện Bồ Kỳ [蒲圻), tỉnh Hồ Bắc được tuần phủ Huệ Linh [惠齡] sai Mạnh Ngọc [孟鈺] đạo Hoàng Đức và tri phủ Võ Xương Mục Thông A [穆通阿] và thủ doanh là tham tướng Lặc Phúc [勒福] qua lại đón tiếp, ngày 12 cùng tháng thì đến tỉnh thành được tổng đốc Hồ Quảng Tất Nguyên [畢沅] đem tất cả quan lại địa phương nghênh đón, mở tiệc diễn kịch và đem biếu các loại vải vóc thổ sản cho mọi người.
Ngày 17 tháng Sáu, phái đoàn vào Tín Dương thuộc tỉnh Hà Nam được tuần phủ Lương Khẳng Đường [梁肯堂] sai Vạn Ninh đạo Nhữ Quang, tri phủ Nhữ Ninh Bành Như Cán [彭如幹] ra đón.
Ngày 29 tháng Sáu, Nguyễn Quang Hiển được tuần phủ Lương Khẳng Đường đãi tiệc rồi sau đó đích thân đưa tiễn ra khỏi cảnh giới Hà Nam. Đến Phong Lạc phái đoàn chuẩn bị qua sông Chương [漳河] nhưng nước dâng cao, sóng lớn, thuyền bè không dám mạo hiểm nên phải nghỉ lại công quán đợi đến mồng 1 tháng Bảy nước rút, đích thân tri phủ Chương Đức là Lý Chu [李 đưa qua sông sang Từ Châu thuộc tỉnh Trực Lệ.[44]
Tổng đốc Trực Lệ Lưu Nga [劉峩] đã nhận được tin từ Hà Nam nên sai người tiếp đón và hộ tống. Phái đoàn đi qua các phủ Cố An, Trác Châu, Tân Thành, Định Hưng đang vụ mùa nên cũng đi chậm lại. Ngày mồng 6 tháng Bảy, phái đoàn đến huyện Chính Định, nước sông Hô Đà [滹沱] dâng cao nên dừng lại chờ đến ngày mồng 8 mới qua sông được.[45]
Ngày 13 tháng Bảy, phái đoàn đến tỉnh thành Trực Lệ được tổng đốc và các quan ra nghinh đón đãi yến, xem kịch và đem biếu các loại vải vóc. Ngày 24 tháng Bảy, phái đoàn lên đường đi tiếp đến Nhiệt Hà là hành tại của vua Thanh ngày mồng 3 tháng Tám và ở lại đây cho đến sau ngày sinh nhật vua Càn Long (13 tháng Tám).
Nguyễn Quang Hiển và hai sứ thần Nguyễn Hữu Trù và Vũ Huy Tấn và tất cả hành nhân cùng các vương công, đại thần và các bối lặc, bối tử Mông Cổ, ngạch phò, đài cát …. nhập cận [vào triều kiến vua Càn Long] tại thắng cảnh Quyển A [卷阿], sau đó mọi người được ăn yến và xem kịch tại Quan Âm Các.
Vũ Huy Tấn kể lại như sau:
Ngày hôm sau [26 tháng Năm] tiến quan thẳng một đường Quảng Tây, Hồ Quảng, Hà Nam, Trực Lệ mà đi. Ngày đêm không nghỉ.
Ngày mồng ba tháng Tám đến công quán. Ngày 13 tháng Tám vào làm lễ triều hạ [mừng sinh nhật vua Càn Long] xong được lệnh cho về nước. Lại theo đường bộ về đến tỉnh thành Quế Lâm thì lên thuyền xuôi dòng đến phủ Ngô Châu. Khi đó là ngày rằm tháng Một …[46]
Sau khi triều kiến vua Càn Long trở về, Vũ Huy Tấn hết sức sung sướng nên đã làm bài thơ sau đây để nói lên tâm sự mình.
朝回喜賦
書生幾得面君王,愧我遠來偏近光。
墀下趍蹌陳賀表,御前揮洒和宸章。
恩綸驚接龍文筆,朝袖欣沾獸鼎香。
公驛歸來清不寐,滿窻風月又相將。
欽承賜覲鳳書宣,晨夕馳驅路十千。
海不波辰知有聖,山從梯後喜瞻天。
翠花日煖濃春色,御鼎香浮靄瑞煙。
歌宴侍陪無別頌,願賡周雅九如篇
Dịch âm
Triều hồi hỉ phú
Thư sinh kỷ đắc diện quân vương,
Quí ngã viễn lai thiên cận quang.
Trì hạ xu thương trần hạ biểu,
Ngự tiền huy sái họa thần chương.
Ân luân kinh tiếp long văn bút,
Triều tụ hân triêm thú đỉnh hương.
Công dịch qui lai thanh bất mị,
Mãn song phong nguyệt hựu tương tương.
Khâm thừa tứ cận phượng thư tuyên,
Thần tịch trì khu lộ thập thiên.
Hải bất ba thời tri hữu thánh,
Sơn tòng thê hậu hỉ chiêm thiên.
Thuý hoa nhật noãn nùng xuân sắc,
Ngự đỉnh hương phù ái thuỵ yên.
Ca yến thị bồi vô biệt tụng,
Nguyện canh Chu Nhã Cửu Như thiên.
Dịch nghĩa
Đã mấy khi kẻ đọc sách được diện kiến quân vương,
Thật thẹn thùng cho người ở xa được gần ánh sáng [thiên tử].
Dưới bệ trang trọng đưa lên tờ biểu trần tình chúc thọ,
Trước mặt nhà vua ta múa bút họa bài thơ thần.
Kinh hãi nhận được lời của nhà vua ban cho từ bút có vẽ rồng,
Áo triều còn vương mùi thơm từ chiếc đỉnh hình con thú.
Trở về nhà dịch ta đêm không ngủ được,
Qua cửa sổ đầy gió trăng quyện lấy nhau.
Nhận được phượng thư cho phép lên triều cận,
Không kể ngày đêm bôn ba mười nghìn dặm.
Biển không có sóng nên biết rằng có thánh nhân,
Vượt núi trèo non vui mừng được chiêm ngưỡng thiên tử.
Hoa biếc mặt trời ấm áp mùa xuân nồng nàn,
Đỉnh ngự hương tỏa ra khói lành mù mịt.
Ca hát yến tiệc hầu vua không còn biết ca tụng gì hơn nữa,
Mong được nối theo các khúc Chu Nhã, Cửu Như.
Ngày 28 tháng Bảy, phái đoàn vào triều sớm. Hôm đó nhà vua mới đi săn về có bắn được một con hươu sao nên sai làm thịt đãi yến ban cho sứ thần để phô cho mọi người biết tuy thiên tử tuổi đã cao nhưng còn nhanh nhẹn. Trên bàn tiệc, Vũ Huy Tấn đã làm một bài thơ và được ban cho một hộp mực thơm [御藏香墨] gồm 10 thỏi.
獮禽古禮正秋佳,天子躬身射獵回。
神武尚嫌弓力粢,仙乘更逐矢頭來。
咸聞車馬欣王豫,好詠騶虞頌聖才。
遠价幸霑分豆惠,上林奏賦乏鴻裁。
Dịch âm
Tiển cầm cổ lễ chính thu giai,
Thiên tử cung thân xạ liệp hồi.
Thần võ thượng hiềm cung lực tế,
Tiên thừa cánh trục thỉ đầu lai.
Hàm văn xa mã hân vương dự,
Hảo vịnh sô ngu tụng thánh tài.
Viễn giới hạnh triêm phân đậu huệ,
Thượng lâm tấu phú phạp hồng tai.
Dịch nghĩa
Đi săn mùa thu là một lễ cổ đẹp
Đích thân thiên tử đi bắn thú về
Thần võ hiềm rằng sức cung mạnh
Cưỡi ngựa đuổi theo mũi tên bay ra
Ai nấy đều nghe xe ngựa vui mừng đến
Những kẻ theo hầu đều ca tụng tài của thánh nhân
Kẻ ở xa tới may mắn được một phần ân huệ
Dâng lên một bài thơ không hợp vào đâu cả
Cũng nhân dịp thánh tiết [sinh nhật vua Càn Long], sứ đoàn An Nam cũng dâng lên một bài thơ mừng thọ và một bài biểu như sau:
天錫純禧萃一人,祥光縹緲捧楓宸。
半千此日今重旦,億萬斯年始八旬。
方國環觀皇極夀。群漦咸頌昊乾仁。
幸同虎拜陪桃宴,虔上蕪章祝大春。
Dịch âm
Thiên tích thuần hi tuỵ nhất nhân,
Tường quang phiếu diểu phủng
phong thần.
Bán thiên thử nhật kim trùng đán,
Ức vạn tư niên thuỷ bát tuần.
Phương quốc hoàn quan hoàng cực thọ.
Quần li hàm tụng hạo càn nhân.
Hạnh đồng hổ bái bồi đào yến,
Kiền thượng vu chương chúc đại xuân.
Dịch nghĩa
Trời ban cho những phúc lành tập hợp vào một người,
Ánh sáng tốt đẹp toả đầy trong cung vua.
Năm trăm năm mới có một ngày như hôm nay.
Trong muôn vạn năm nay thọ được đến tám mươi là đầu tiên.
Dưới trần hoàn sống thọ ngang với trời đất,
Lòng nhân trải ra khắp cõi càn khôn..
May mắn được cùng mọi người ăn yến vườn đào,
Kính cẩn dâng lên một bài thơ vụng về để chúc mùa xuân lớn.
伏以
欽明有文
八表仰堯勲之放。祿名兼夀。
兩間昭舞德之華。慶集一人。
騰歡萬海。
臣等竊惟。
昊天生蒸民立之司牧。葢必惟最靈最粹之才。
皇極歛五福先曰夀康。將求建至正至中之準。
於皇今日。允協昌期。
欽惟
皇帝陛下。
仁孝格天。
孚誠享帝。撫百四十載累洽重煕之運。
水止一心。作五十四年盛治備祉之君。
綴旈萬國。
和泰昭回盛旦。
重申允迓宏休。
海籌初進耄旬。
方川至山增之未殳。
秋呂近臨月夕。
適虹流電遶之重逢。
南極瞻而兆姓雀歡。
北辰拱而群方鰲怍。
臣等來從午徼。
喜見丁纒。
虎拜齊趍。稱藕幸陪華宴。
嵩呼媚祝。獻芹敢効蕪章。
Dịch âm
Phục dĩ
Khâm minh hữu văn
Bát biểu ngưỡng Nghiêu huân chi phóng. Lộc danh kiêm thọ.
Lưỡng gian thiệu Vũ đức chi hoa. Khánh tập nhất nhân.
Đằng hoan vạn hải.
Thần đẳng thiết duy.
Hạo thiên sinh chưng dân lập chi tư mục. Cái tất duy tối linh tối tuý chi tài.
Hoàng cực liễm ngũ phúc tiên viết thọ khang. Tương cầu kiến chí chính chí trung chi chuẩn.
Ư hoàng kim nhật. Doãn hiệp xương kỳ.
Khâm duy
Hoàng đế bệ hạ.
Nhân hiếu cách thiên.
Phu thành hưởng đế. Phủ bách tứ thập tải luỵ hiệp trùng hi chi vận.
Thuỷ chỉ nhất tâm. Tác ngũ thập tứ niên thịnh trị bị chỉ chi quân.
Xuyết lưu vạn quốc.
Hoà thái thiệu hồi thịnh đán.
Trùng thân doãn nhạ hoành hưu.
Hải trù sơ tiến mạo tuần.
Phương xuyên chí sơn tăng chi vị thù.
Thu lữ cận lâm nguyệt tịch.
Thích hồng lưu điện nhiễu chi trùng phùng.
Nam cực chiêm nhi triệu tính tước hoan.
Bắc thần củng nhi quần phương ngao tộ.
Thần đẳng lai tòng ngọ khiếu.
Hỉ kiến đinh triền.
Hổ bái tề xu. Xứng ngẫu hạnh bồi hoa yến.
Tung hô mị chúc. Hiến cần cảm hiệu vu chương.
Dịch nghĩa
Cúi lạy
Ngày xưa sách có viết rằng
Tám cõi đều ngước về mong được vua Nghiêu ban bố tới,
Cả lộc danh lẫn thọ
Trời đất bừng sáng của vua Vũ mà ca tụng vẻ vinh hoa
Tập trung cả vào một người
Vui mừng vượt qua vạn biển
Bọn thầm trộm nghĩ rằng
Trời mênh mông nuôi nấng muôn dân
Ấy phải là cái tài tối linh cực tinh túy
Hoàng cực ban cho năm phúc thì trước hết phải là thọ khang
Rồi mới mong được chuẩn mực thật chính thật trung
Được ngày hôm nay
Hợp kỳ tốt đẹp
Kính thay hoàng đế bệ hạ
Đức nhân đức hiếu như trời
Tin thành nên hưởng vai đế
Tiếp nối việc vỗ về vận sáng một trăm bốn mươi năm
Vẫn chỉ một lòng
Làm vua trong năm mươi bốn năm thịnh trị
Nối liền vạn nước
Hòa thái soi sáng ngày thịnh
Rộng thêm phúc lớn tốt lành
Tính ra mới đến bát tuần
Sẽ còn dài như sông núi
Sáng vằng vặc như trăng thu
Ánh cầu vồng quấn quít
Thấy nam cực mà trăm họ reo vui
Chầu bề sao bắc mà mọi phương cúi đầu
Bọn thần từ nơi xa xôi hoang vắng
Vui mừng thấy người người lũ lượt
Hổ báo cùng đến
Được may mắn dự vào hoa yến
Tung hô chúc tụng
Dâng lên nhỏ mọn vài câu vụng về
Việc vua Quang Trung sai Nguyễn Quang Hiển mang biểu văn cầu phong được triều đình nhà Thanh đánh giá như một biến cố trọng đại, “chiến thắng mà không cần dụng binh” nên đã được vẽ thành bức tranh “Nguyễn Huệ khiển điệt Nguyễn Quang Hiển nhập cận tứ yến” trong An Nam Chiến Đồ. Trong bức tranh này, vua Càn Long ngự tại Quan Âm Các là một trong ba đại kịch trường ở kinh đô [ba tầng có các nhạc công], phái đoàn nước ta có Nguyễn Quang Hiển và hai sứ thần [mặc áo tía], năm hành nhân [mặc áo đỏ], phía bên trái nhà vua là nơi chuẩn bị tiệc.
Trong dịp này, vua Càn Long thưởng cho Nguyễn Quang Bình [vua Quang Trung] tượng Quan Âm bằng ngọc, thanh như ý bằng ngọc, gấm đoạn sợi vàng, triều châu [chuỗi đeo cổ theo phẩm phục nhà Thanh] … Nguyễn Quang Hiển cũng được thưởng tượng La Hán bằng sứ, ngọc như ý, gấm đoạn sợi vàng và hộp bằng bạc … Các sứ thần hành nhân đi theo cũng được thưởng nhiều món khác nhau.[47]
Ngày 28 tháng Bảy, vua Càn Long ban cho vua Quang Trung một bộ kinh Kim Cương (hộp lớn) còn Nguyễn Quang Hiển cũng được một bộ (hộp nhỏ). Bộ kinh này có ghi những lời chú thích và bình giải của chính vua Càn Long.[48]
Ngày mồng 2 tháng Tám, sắc và ấn mới đúc đã được trình lên vua Càn Long ngự lãm, sau đó được giao cho bộ Lễ chuyển về kinh đô để làm lễ giao cho Nguyễn Quang Hiển.
Ngày 10 tháng Tám, vua Càn Long tổ chức đại yến phái đoàn lại được thưởng thêm.
Theo Từ Diên Húc trong Việt Nam Tập Lược, trong năm Kỷ Dậu nước ta được thưởng 5 lần nhưng không ghi rõ thời gian nào vì có nhiều phái đoàn đến Nhiệt Hà với nhiệm vụ khác nhau[49]. Sau khi gặp vua Càn Long ở Nhiệt Hà, phài đoàn trở về Bắc Kinh[50].
Ngày 22 tháng Tám trong một đại lễ ở điện Thái Hòa, Nguyễn Quang Hiển đã nhận sắc và ấn do bộ Lễ soạn và đúc sẵn. Phía Thanh đình, đại học sĩ A Quế đứng ra giao ấn, đại học sĩ Kê Hoàng đứng ra trao sắc và nghi lễ đã được vua Càn Long minh bạch sắp xếp[51]. Sắc phong này đề ngày 22 tháng Sáu năm Kỷ Dậu, do Quân Cơ đại thần thảo ra, trình lên ngự lãm rồi, sau đó do thư ký trong nội các viết bằng hai thứ chữ Mãn – Hán, đóng ngự bảo (dấu của nhà vua).
Sắc phong Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc Vương
Nguyên văn:
朕惟王化遐覃,伐罪因而舍服,侯封恪守,事大所以畏天,鑒誠悃於荒陬,貰其既往,沛恩膏於屬國,嘉與維新,賁玆寵命之頒,以訓行之率。
維安南地居炎徼,開十三道之封彊,而黎氏臣事天朝,修百餘年之職貢,每趨王會,舊附方輿。
自遭難以流離,遂式微而控愬,方謂興師復國,字小堪與圖存,何期棄印委城,積弱仍歸失守,殆天心厭其薄德,致世祚訖於終淪。
爾阮光平起自西山,界斯南服,向匪君臣之分,寢成婚媾之讐,釁起交訌,情殊負固,抗顏行於倉猝,雖無心而難掩前愆,悔罪疚以湔除。
願革面而自深痛艾,表箋籲切,使先猶子以抒忱,琛獻憬來,躬與明年之祝嘏,自非仰邀封爵,榮藉龍光,曷由下蒞臣氓,妥玆鳩集。
凡此陳詞以實,胥徵効順彌虔,况王者無分民,詎在版章其土宇,而生人有司牧,是宜輯寧爾邦家,爰布寵綏,俾憑鎮撫,今封爾為安南國王,錫之新印。
於戲!
有興有廢,天子唯順天而行,無貳無虞,國人咸舉國以聽,王其懋將丹款,肅矢冰競,固圉以長其子孫,勿使偪滋他族,悉心以勤於夙夜,罔令逸欲有邦,益敬奉夫明威,庶永承乎渥典。
欽哉!
毋替朕命。[52]
Dịch âm
Trẫm duy vương hoá hà đàm, phạt tội nhân nhi xá phục, hầu phong khác thủ, sự đại sở dĩ uý thiên, giám thành khổn ư hoang tưu, thế kỳ ký vãng, bái ân cao ư thuộc quốc, gia dữ duy tân, bí tư sủng mệnh chi ban, dĩ huấn hành chi suất.
Duy An Nam địa cư viêm kiếu, khai thập tam đạo chi phong cương, nhi Lê thị thần sự thiên triều, tu bách dư niên chi chức cống, mỗi xu vương hội, cựu phụ phương dư.
Tự tao nạn dĩ lưu ly, toại thức vi nhi khống tố, phương vị hưng sư phục quốc, tự tiểu kham dữ đồ tồn, hà kỳ khí ấn uỷ thành, tích nhược nhưng qui thất thủ, đãi thiên tâm yếm kỳ bạc đức, chí thế tộ cật ư chung luân.
Nhĩ Nguyễn Quang Bình khởi tự Tây Sơn, giới tư nam phục, hướng phỉ quân thần chi phân, tẩm thành hôn cấu chi thù, hấn khởi giao hồng, tình thù phụ cố, kháng nhan hàng ư thương thốt, tuy vô tâm nhi nan yểm tiền khiên, hối tội cứu dĩ tiền trừ.
Nguyện cách diện nhi tự thâm thống ngải, biểu tiên dụ thiết, sử tiên do tử dĩ trữ thầm, sâm hiến cảnh lai, cung dữ minh niên chi chúc hỗ, tự phi ngưỡng yêu phong tước, vinh tạ long quang, hạt do hạ lị thần manh, thoả tư cưu tập.
Phàm thử trần tự dĩ thực, tư trưng hiệu thuận di kiền, huống vương giả vô phận dân, cự tại bản chương kỳ thổ vũ, nhi sinh nhân hữu ti mục, thị nghi tập ninh nhĩ bang gia, viên bố sủng tuy, tỉ bằng trấn vũ, kim phong nhĩ vi An Nam quốc vương, tích chi tân ấn.
Ô hô!
Hữu hưng hữu phế, thiên tử duy thuận thiên nhi hành, vô nhị vô ngu, quốc nhân hàm cử quốc dĩ thính, vương kỳ mậu tương đan khoản, túc thỉ băng cạnh, cố ngữ dĩ trường kỳ tử tôn, vật sử bức tư tha tộc, tất tâm dĩ cần ư túc dạ, võng lệnh dật dục hữu bang, ích kính phụng phù minh uy, thứ vĩnh thừa hồ ác điển.
Khâm tai.
Vô thế trẫm mệnh.
Dịch nghĩa
Trẫm vốn chỉ dùng vương hoá để trải rộng đến tận phương xa, phạt kẻ có tội nhưng vẫn tha kẻ quay về, phong cho chư hầu biết kính cẩn giữ lễ, coi việc lớn là sợ trời, xét lòng thành của kẻ nơi hoang dã, bỏ qua những chuyện cũ, đem ân ban bố cho thuộc quốc, tán thành việc đổi mới, (nên) thương mà giao việc xuống, thuận mà hết sức làm theo.
Đất An Nam ở nơi nóng nực phương nam, mở mang cương vực mười ba đạo, họ Lê là bề tôi thờ thiên triều, giữ việc cống lễ hơn trăm năm qua, tuân theo vương hoá, làm chủ một cõi. Đến khi gặp nạn ly tán, chạy đến kêu xin, (thiên triều) đã hưng sư lấy lại nước tưởng mong giữ được cơ đồ, nào hay vứt ấn bỏ thành, rốt cuộc rồi cũng trắng tay, hẳn là trời cũng ghét bỏ kẻ đức mỏng, không cho giữ quyền thừa kế nên rồi cũng để mất.
Ngươi Nguyễn Quang Bình khởi từ đất Tây Sơn, vốn dĩ sống ở phương nam, đối với kẻ kia không có nghĩa quân thần, chỉ có tình hôn nhân, dần dà hai bên gây hấn, tình nghĩa dứt rồi, lúc hoảng hốt ra tay chống lại, dẫu không phải là cố ý nhưng tội lỗi không dễ xoá nhoà. Nay biết thống hối, dâng tờ biểu thiết tha, sai cháu làm sứ thần từ xa xôi sang trình bày, đem cống hiến đồ quí báu, (còn) bản thân sang năm sẽ qua chúc thọ, chẳng phải vì mong được phong tước để được vinh quang, mà để cho thần tử đang ngơ ngác, lang thang có nơi tụ tập yên ổn.
Những lời trần tình ấy quả là thành thực, cung kính mà quy thuận, huống chi vương đạo không phân biệt ai, há lại coi chỗ này hơn chỗ khác, người sống phải có kẻ chăn dắt, kẻ hoà hợp cần được yên ổn gia đình, người nghèo được nâng đỡ, kẻ kém được vỗ về, nay phong cho ngươi làm An Nam quốc vương, ban cho ấn mới.
Than ôi!
Đời có lúc hưng lúc phế, thiên tử cứ theo mệnh trời mà làm, không ngờ vực, không sợ hãi, người trong nước tất cả đều nghe theo, để cho vương đạo tràn lan khắp cõi, truyền cho đến cháu con, không để vào tay họ khác, hết lòng hết dạ chăm chỉ sớm hôm, không trễ nải việc nước, luôn luôn kính trọng oai trời, để được thấm nhuần ơn mưa móc mãi mãi.
Kính thay!
Chớ bỏ qua lệnh của trẫm.
Hình 1: Phái đoàn Nguyễn Quang Hiển triều kiến vua Càn Long ở Nhiệt Hà
Hình 2: Kim tiên đời Cảnh Thịnh gửi sang nhà Thanh có đóng dấu An Nam quốc Vương
Sau khi lễ nhận sắc ấn hoàn tất, phái đoàn Nguyễn Quang Hiển lưu lại Bắc Kinh hai ngày để mua nhân sâm[53]. Ngày 24 tháng Tám, phái đoàn Nguyễn Quang Hiển khởi trình theo đường bộ về nước.
Cũng thời gian này, một mặt vua Càn Long chuyên tâm theo dõi việc sứ thần Thành Lâm sang Thăng Long làm lễ phong vương, tiếp đó là đốc thúc các địa phương đưa phái bộ Nguyễn Hoành Khuông lên kinh đô cho kịp dịp tết Nguyên Đán nên việc phái bộ Nguyễn Quang Hiển trở về tương đối mờ nhạt. Đáng án nhà Thanh chỉ có một số báo cáo của quan địa phương tiếp đãi khi phái đoàn đi ngang qua cảnh giới của họ. Tuy nhiên, theo văn thơ của Vũ Huy Tấn trong Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập thì trên đường về vì không phải đi gấp ngày đêm không nghỉ như khi tiến kinh nên có nhiều dịp thăm viếng, trao đổi với quan chức địa phương, làm thơ xướng hoạ.
Ngày Trùng Dương mồng 9 tháng Chín, phái đoàn đến Chương Đức (彰德) và ghé ngang Lạc Đình, thưởng tuyết ở Trác Châu, quay lại chùa Hưng Long để từ biệt thiền sư Liên Thành, thăm lầu Nhạc Dương và cung điện cũ của vua nước Việt rồi xuống thuyền trở về Quảng Tây.
Ngày 27 tháng Mười, theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh thì Nguyễn Quang Hiển đã đến Quế Lâm và được tiếp đãi khá trọng thể. Phái đoàn nghỉ lại một ngày sau đó theo đường thuỷ đến Ngô Châu và được quan lại nhà Thanh lưu lại đến gần 10 ngày để thăm 8 nơi thắng cảnh danh tiếng. Sau đó Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp và phó tướng Đức Khắc Tinh Ngạch đưa tất cả về nghỉ lại công quán phủ Thái Bình.
Ngày 12 tháng Một, Ngô Văn Sở và Nguyễn Văn Danh đưa các vệ sĩ và chuẩn bị long đình đến đón ở Nam Quan[54]. Cũng dịp này, Ngô Văn Sở lại nhờ quan nhà Thanh tâu lên để ông được cùng với quốc vương tới kinh đô vào năm sau[55].
Trong bữa tiệc tiễn phái đoàn, Ngô Văn Sở có tiết lộ một chi tiết cho ta thấy tình hình trong dân chúng về việc vua Quang Trung dự tính sang Trung Hoa dự lễ khánh thọ như thế nào? Theo thượng dụ của vua Càn Long ngày mồng 5 tháng Giêng năm Canh Tuất thì:
Cứ như lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh tâu lên báo rằng Nguyễn Quang Bình sai bọn Ngô Văn Sở đến quan [Trấn Nam] nghênh tiếp sắc ấn và cung tiến tạ biểu nên sai người chuyển lên trước, trẫm đã dùng bút son phê lên trên biểu để cho sứ thần nước đó là Nguyễn Hoành Khuông hiện đã đến kinh đô đợi khi về nước sẽ mang châu phê biểu văn cùng với tuyên dụ đem về để tỏ lòng sủng quyến. Nguyễn Quang Bình khi nhận được rồi sẽ đem lòng cảm kích về thi ân vượt mực này để y kiên tâm hơn về lòng thành chiêm cận.
Tôn Vĩnh Thanh cũng tâu rằng theo lời bẩm của Thang Hùng Nghiệp thì Ngô Văn Sở gặp mặt có cho y hay rằng Lê Quýnh khi chưa ra khỏi ải khẩu [sang Trung Hoa] đã truyền bá dao ngôn rằng đợi khi quốc vương tiến kinh thì đại binh sẽ lập tức xuất quan để giúp họ Lê, [vua] nước kia tuy không tin hẳn nhưng cũng hơi nghi ngại.
Viên đạo này [Thang Hùng Nghiệp] dụ rằng đã đưa Lê Duy Kỳ lên kinh đô còn Lê Quýnh cũng bị an tháp ở nơi xa xôi. Bọn Ngô Văn Sở nói rằng họ cũng đã nhận được tin đó nên không nghi ngại gì và khẩn cầu với quốc vương khi tiến kinh cho được đi theo cho thoả lòng thành tâm chiêm cận.
Trước đây trẫm thấy rằng Ngô Văn Sở là người đắc lực của quốc vương nếu đi theo lên cung khuyết thì không có người cư thủ nên đã giáng chỉ ra lệnh cho Nguyễn Quang Bình khi từ kinh đô về nước rồi đến kỳ tiến cống sau thì hãy cho đi. Trong bẩm thiếp mà quốc vương kia gửi Thang Hùng Nghiệp cũng có nói rằng sẽ để cho Ngô Văn Sở ở lại giữ quốc đô.
Nay Ngô Văn Sở lại tận mặt nói với Thang Hùng Nghiệp khẩn khoản xin đi cùng chiêm cận chắc là viên bồi thần đó nghe Lê Quýnh truyền bá lời sằng trong lòng nghi ngại nên mới xin đi theo để thăm chừng tình hình. Viên tuần phủ thấy thế mới đem chỉ dụ trước dẫn cho rằng đại hoàng đế nghĩ rằng nước ngươi mới dựng được phong làm phiên nên đặc biệt thể tuất cho quốc vương lên kinh đô nên đã ra lệnh cho ngươi ở lại giữ nước, vậy ngươi hãy kính cẩn tuân theo ân dụ tạm hoãn việc tiến kinh. Ngô Văn Sở thấy thế không còn nghi ngại gì nữa nên mọi việc đều ổn thoả.
Tôn Vĩnh Thanh chưa từng thấy đặc mệnh do quân cơ đại thần gửi cho Phúc Khang An vậy nay tả một hịch dụ gửi cho viên tuần phủ để y viết lại cho rõ ràng gửi cho nước kia để khi nào được trả lời thì mau mau tâu lên.
Ngày mồng 6 tháng Giêng, tổng đốc Lưỡng Quảng và tuần phủ Quảng Tây gửi thư cho vua Quang Trung về việc này như sau:
Cứ như Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp bẩm báo thì quốc vương đã sai người nghinh tiếp sắc ấn và cung tiến biểu tạ ơn đủ thấy thành tâm qui thuận nên chúng tôi đã tâu lên đại hoàng đế. Còn việc Ngô Văn Sở nói với Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp được thánh thượng gia ân thể tuất ra lệnh đợi đến kỳ cống sau sẽ tiến kinh thì y rất là cảm kích nhưng hiện nay đã có Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Danh đều là những người có thể tín nhiệm, vậy xin chuẩn cho đồng hành để sớm được chiêm ngưỡng thiên nhật.
Ngô Văn Sở thấy quốc vương nhận được tước phong của thiên triều nên có toàn cõi An Nam, lại được mấy lần ân sủng nên cả vua tôi đều vinh dự, nguyện theo quốc vương cùng đến khuyết đình để toại lòng chiêm thiên ngưỡng thánh, niềm vui đó quả là từ dạ chí thành.
Lần trước Ngô Văn Sở đã nói với Thành Lâm tình nguyện đi theo quốc vương tiến kinh, bản tước các bộ đường đã lập tức tâu lên đại hoàng đế thể tuất cho nguyện vọng này.Thế nhưng nước kia vốn mới dựng mọi việc cần người lo toan. Ngô Văn Sở nếu như đi theo đến cung khuyết e rằng không có người cư thủ có thể liên quan đến quốc sự. Chi bằng đợi khi quốc vương chúc thọ trở về lần tiến cống sau sẽ ra lệnh cho Ngô Văn Sở đi. Ấy là ân vượt mức của đại hoàng đế, lo nghĩ đến mọi điều nên sai bản tước các bộ đường báo cho quốc vương biết.
Đến nay Ngô Văn Sở lại khẩn khoản xin đi theo lên kinh, ấy là tấm lòng tha thiết muốn sớm được chiêm cận thiên nhan, nhưng Ngô Văn Sở trước sau phụ trợ quốc vương, nay qui mô mới định, việc trong chính sự trong nước đều cần phải chỉnh đốn lo liệu. Huống chi Lê Quýnh trước khi qua ải đến đây cũng đã từng loan truyền dao ngôn rằng y sang nội địa cầu viện để khi quốc vương tiến kinh thì đại binh lập tức kéo ra khỏi cửa quan giúp cho họ Lê.
Quốc vương đã nhận được sủng mệnh làm phên dậu cõi Nam giao, trông vào uy linh vỗ về dân chúng, mọi người trong nước đều hướng về Nghệ An, hẳn không coi lời bịa đặt của Lê Quýnh vào đâu. Hiện nay bọn Lê Quýnh đã bị giải lên kinh xem xét để an tháp ở các nơi xa xôi. Lê Duy Kỳ đã gia nhập kỳ binh cấp cho bổng lộc tá lãnh cho tuyệt hậu hoạn. Thế nhưng vì Lê Quýnh loan truyền lời sằng bậy mà Ngô Văn Sở lại là bầy tôi đắc lực của quốc vương nếu ở lại giữ quốc đô không để cho những việc đó bén rễ có thể trấn tĩnh nhân tâm …[56]
Cũng vì việc này, vua Càn Long ra lệnh gấp rút phát phối nhóm tòng vong nhà Lê đi Giang Nam, Chiết Giang, Tứ Xuyên … còn vua Chiêu Thống và gia quyến bị đưa lên Bắc Kinh. Bọn Lê Quýnh 4 người không chịu gióc tóc đổi y phục nên bị giam ở bộ Hình.
Theo một lá thư của vua Quang Trung gửi Thang Hùng Nghiệp – là người đã bạn tống Nguyễn Quang Hiển lên kinh đô – nhan đề “Ký Chuyển Quốc Thư dữ bồi giới Nguyễn Hoành Du”[57] (寄轉國書與陪价阮宏猷) thì ngày 18 tháng Một, Nguyễn Quang Hiển đem sắc ấn về đến Thăng Long và trình bày chi tiết chuyến đi[58]. Ngày 20 tháng Một, Nguyễn Quang Hiển lên đường về Phú Xuân.
Chú Thích:
[1] Thành ngữ từ sách Trang Tử, thiên Tắc Dương. Man là tiểu quốc ở sừng [râu] bên phải con ốc sên, Xúc là nước ở sừng [râu] bên trái con ốc sên, hai nước tranh chấp đánh nhau chết hàng vạn. Ý nói chỉ là việc nhỏ nhặt của tiểu quốc.
[2] Thanh Sử Biên Soạn Uỷ Viên Hội, Thanh Sử, Tập 7 (Đài Bắc, 1961) tr. 5757 (tức Thanh Sử Cảo, bản đã tu đính, in ở Đài Loan)
[3] Trong lịch sử bang giao đời Tây Sơn, nhiều thân thuộc của vua Quang Trung cũng tham gia trong các sứ bộ sang Trung Hoa [tài liệu thường chép là “quốc thân” (người trong họ của quốc vương)] cụ thể nhất có Nguyễn Quang Hiển, Phạm Công Trị, Đặng Văn Chân … nên cũng gây nhiều nghi vấn cho rằng những người này có thể đã đóng giả Nguyễn Huệ.
[4] Một triều đại mới theo quan niệm thời cổ không chỉ là một dòng họ mới mà cũng là một nước mới (nên có khi đổi quốc hiệu), những người có công được gọi là “khai quốc công thần” (bấy tôi mở nước).
[5] …Có điều Lê thành vừa mới trải qua binh lửa, lòng người chưa yên, công việc vỗ về cho ổn định còn chưa thư thả không thể đi khỏi quốc thành nên đã sai người thân là Nguyễn Quang Hiển [阮光顯] đến cửa quan, thay mặt hành lễ ấy là trước sau một lòng tuy đại do thân [雖代猶親] (tuy thay mặt nhưng cũng như chính mình vậy). Lời tâu của Phúc Khang An, KDANKL, q. XIX, 9b
[6] Việc xin thay đổi dòng họ, đổi quốc hiệu, cầu phong và nghi lễ qua lại chúng ta có thể tham khảo thêm các sứ bộ đời Gia Long là những hình thức không bị tiết giảm. Vua Gia Long thoạt tiên gửi phái đoàn Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Hoàng Ngọc Uẩn sang Trung Hoa năm Nhâm Tuất (1802 ) để trình bày việc xin thay nhà Tây Sơn, đến năm Quí Hợi (1803) lại cử sứ bộ Lê Quang Định, Lê Chính Lộ, Nguyễn Gia Cát sang xin đổi quốc hiệu và phong vương. Đầu năm Giáp Tí (1804), nhà Thanh sai Tề Bố Sâm sang phong cho vua Gia Long làm Việt Nam quốc vương. Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, q. 128 [tập IV] (2005) tr. 426-7, Đại Nam Thực Lục, đệ Nhất kỷ [tập I] (2002) tr. 580-1. Nói tóm lại, thông thường dù không có gì trở ngại cũng mất khoảng 3 năm. Trong khi đó, mọi thủ tục xem ra còn rườm rà hơn trong việc công nhận vua Quang Trung thay nhà Lê lại chỉ mất có 4, 5 tháng.
[7] Sách vở nước ta có khi viết là vái ba lần (tam bái) nhưng theo nghi lễ nhà Thanh thì là rập đầu (tam khấu).
[8] KDANKL, q. XIX, trang 17 b
[9] Khi Mạc Đăng Dung hàng phục nhà Minh, đích thân ông cũng phài qua Nam Quan để dâng biểu. Nay Phúc Khang An cũng muốn Nguyễn Quang Hiển thay mặt vua Quang Trung sang đất Thanh đưa biểu cho ông ta gửi đi. Tuy hình thức giống nhau nhưng tư cách hai bên một trời một vực, họ Phúc chỉ muốn áp dụng điển lệ cũ để cho đẹp lòng vua Càn Long và chứng minh được rằng ông ta đã khuất phục được đối phương. So sánh số người và nghi lễ, Nguyễn Quang Hiển được Phúc Khang An đón tiếp một cách bình đẳng, không sợ hãi, khép nép … như tâu lên.
[10] [禮記·中庸:車書一統,萬國享王之盛] (Lễ Ký, Trung Dung: xa thư nhất thống, vạn quốc hưởng vương chi thịnh) xe cùng cỡ trục, sách cùng văn tự ý nói tất cả cùng chung một chế độ
[11] KDANKL, q. XIX, tr. 24-6 (bản dịch NDC)
[12] Long đình (châsse aux dragons) theo miêu tả của linh mục L. Cadière còn có tên Cửu Long Đình là một cái hương án để trên một cái kiệu có màn che, do bốn binh sĩ khiêng trên vai. “Comment l’Empereur de Chine confera l’investiture a Tu-Duc” [theo lời tường thuật của Giám mục Pellerin], BAVH, 1916 tr.299.
[13] Vũ Huy Tấn, Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập. YHVH, q. VI, tr. 293-4
[14] Bài Tựa Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập. YHVH, q. VI, tr. 293-4
[15] Danh sách này tìm thấy trong Quân Cơ Xứ, nguyệt triệp bao, hòm 2778, bao 163, số hiệu 39114 (Trang Cát Phát, sđd chú thích 102, tr. 389)
[16] Đây là theo tài liệu nhà Thanh nhưng trong tài liệu nước luôn luôn ghi là Vũ Huy Tấn.
[17] DVQT, tập 1. Thư Phúc Khang An gửi Nguyễn Quang Hiển và thư của viên quan họ Ngô gửi Nguyễn Quang Hiển. Ngay khi tiếp Nguyễn Quang Hiển ở Nam Quan, Phúc Khang An đã tâu lên vua Càn Long rằng Nguyễn Quang Bình sẽ tâu lên xin đích thân sang triều cận [nhưng thực ra ông ta chỉ dặn Nguyễn Quang Hiển về nhắc vua Quang Trung đưa đề nghị đó trong biểu văn gửi lên vua Càn Long để xin phong vương. Tuy nhiên khi Nguyễn Quang Hiển sang lần thứ hai và được vua Càn Long cho phép lên kinh đô, tờ biểu không ghi việc này khiến cho Phúc Khang An phải vội vã đốc thúc Nguyễn Quang Hiển báo cáo về việc đã gặp gia đình Lê Duy Kỳ cạo đầu, thay áo và thêm chi tiết xin triều cận vào biểu văn cho người chạy trạm đưa lên Nam Quan để quan nhà Thanh thay thế bản văn cũ mà Nguyễn Quang Hiển đang cầm. Chúng ta biết được bản văn cẩu phong còn lưu trữ là bản viết sau, không phải bản gốc nguyên thuỷ vua Quang Trung muốn gửi lên.
[18] 爾旣履中華之土,卽當從中華之制,一體薙髮改服,不得仍循舊俗. Nay các ngươi đã ở trên đất Trung Hoa, vậy phải theo chế độ Trung Hoa, tất cả đều phải cạo đầu đổi y phục, không được theo tục cũ của nước ngươi nữa. KDANKL, q. XXI, tr. 14 (bản dịch NDC)
[19] Tranh chấp nên gây hấn với nhau
[20] Nhận cho qui thuận làm phiên thuộc
[21] Đi lên kinh đô để ra mắt hoàng đế
[22] 畏天事大 – úy thiên sự đại. Trích từ lời Mạnh Tử [Lương Huệ Vương hạ] ý nói việc sợ trời thờ nước lớn là kế sách khôn ngoan để bảo vệ mình khỏi bị xâm lăng, thường dùng để giải thích và biện minh cho việc Trung Hoa áp đặt tương quan thiên triều – phiên thuộc lên các tiểu quốc chung quanh. Nói là sợ trời nhưng vì thiên tử Trung Hoa là “con trời” nên cũng đồng nghĩa thần phục thiên tử.
[23] Tức Tôn Sĩ Nghị
[24] Nghìn năm khó gặp
[25] Gặp hoàng đế chúc thọ
[26] biền la – 駢羅 viết tắt của biền tỉ la liệt [駢比羅列] xe ngựa sắp thành hàng, ý nói rất nhiều
[27] Tức vua Chiêu Thống là vị vua sau cùng của Lê triều
[28] DVQT, q. I (trong nguyên bản ghi là tập)
[29] Việc lập đàn cùng tế là có thực nhưng chưa hẳn do yêu cầu của Thanh triều mà do tập tục dân nước ta. Hiện nay, trong các tài liệu của Việt Nam còn tìm được hai bản văn tế tướng sĩ trận vong, một bản chữ Hán do Vũ Huy Tấn soạn (xem nguyên tác nhan đề “Phụng Soạn Tôn Tế Bắc Lai Trận Vong Chư Tướng Văn” [奉撰尊祭北來陣亡諸將文] trong Hoa Nguyên Tùy Bộ Tập [華原隨步集 ] và một bản chữ Nôm nhan đề “Thiên Triều Văn” do Nguyễn thị Lâm (Viện Nghiên Cứu Hán Nôm) sưu tầm và phiên dịch từ sách Cúng Văn Tạp Lục (Thông Báo Hán Nôm Học năm 2005, Hà Nội, KHXH, 2006).
[30] KDANKL, q. XXI, tr, 14-7 (bản dịch NDC)
[31] Chú bài “Đề Tương Giang Tự” [題湘江寺], Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập, YHVH, q. VI, tr. 309
[32] Xem thêm “Lê Duy Kỳ, đáng thương hay đáng trách?” và “Lê Quýnh”, biên khảo của NDC.
[33] Vòng đeo bằng ngọc trai, tuy gọi là thủ xuyến nhưng lại đeo ở thắt lưng như một loại trang sức
[34] Người đi theo
[35] Những người đi theo trong phái đoàn
[36] Triều kiến hoàng đế để chúc thọ
[37] Đương phong vi thân vương, thị dữ tông thất ngoại phiên thân vương nhất thể, ban tại tông thất ngoại phiên quận vương chi thượng (當封爲親王,視與宗室外藩親王一體,班在宗室外藩郡王之上) Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 391.
[38] Trích từ tấu thư của tuần phủ Hồ Nam Phổ Sâm ngày 15 tháng Năm [nhuận], Càn Long 54. Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72 [tháng Năm – Bảy, Càn Long 54], Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc, 1988 tr. 236-7
[39] Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 237
[40] Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 238
[41] Tấu thư của tuần phủ Hồ Nam Phổ Sâm ngày 25 tháng Năm [nhuận], Càn Long 54. Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 334-5
[42] YHVH, q. VI tr. 310-3
[43] Tấu thư của tuần phủ Hồ Nam Phổ Sâm ngày 5 tháng Sáu, Càn Long 54. Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 413-4
[44] Tấu thư của tuần phủ Hà Nam Lương Khẳng Đường ngày mồng 4 tháng Bảy, Càn Long 54. Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 762
[45] Tấu thư của tổng đốc Trực Lệ Lưu Nga, ngày mồng 10 tháng Bảy, Càn Long 54. Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 829
[46] Bài Tựa Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập. Việt Nam Hán Văn Yên Hành Văn Hiến Tập Thành (đệ Lục sách) tr. 293-4
[47] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV [254] tr. 123-4. Thượng Dụ ngày 24 tháng Bảy năm Càn Long 54 v/v Nguyễn Quang Hiển bệ kiến.
[48] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV [263] tr. 128.
[49] Trang Cát Phát, Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (1982), chú thích 108, tr. 414
[50] Vua Thanh ở hai nơi, mùa rét ở kinh đô và mùa nóng ở Nhiệt Hà [Tị Thử Sơn Trang] nên sử gọi là Dương Kinh và Âm Kinh.
[51] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV [302] tr. 142.
[52] Nguyên bản trích từ Thanh Thực Lục, q. 1333, sách văn ngày Bính Tý (12), tháng 6 năm Càn Long 54 và cũng được chép lại trong Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu, Trang Cát Phát, tr. 393-4
[53] Kể từ lần này, sứ bộ An Nam mỗi lần qua được vua Càn Long cho phép mua 500 cân thuốc bắc đủ loại đem về nước. Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng (1991) tr. 266-7
[54] Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp (1988), q. 73 tr. 840
[55] KDANKL, 26.3 tr. 5-7
[56] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV (1991) tr. 408 [916]
[57] Tức là Nguyễn Hoành Khuông (viết nhầm)
[58] Ngô Thì Nhậm tác phẩm I (2001) nguyên văn chữ Hán tr. 707