3.1. Việc nước việc nhà nhiều điều bối rối. Vua Quang Trung qua đời.
Cuối năm 1790, vua Quang Trung đòi nhà Thanh phải trả lại đất 6 châu thuộc Hưng Hóa đã bị nhà Thanh chiếm, nhưng nhà Thanh đáp cương vực đã ổn không thể thay đổi. Tháng 6 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung cử Võ Văn Dũng dẫn đầu một sứ đoàn sang Trung Quốc để cầu hôn và đòi đất Lưỡng Quảng [1].
Năm 1791, bà chính hậu họ Phạm - người được vua Quang Trung sủng ái nhất (mẹ đẻ của Thái tử Quang Toản) - mất, nhà vua đau xót muốn “phát điên”;
Trong gia đình anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ mâu thuẫn gay gắt; Nguyễn Nhạc sẵn sàng đem quân ra khuất phục triều Quang Trung chiếm lấy Phú Xuân;
Mùa hè năm 1792, Nguyễn Vương ở Gia Định nắm được thời cơ ấy, đích thân chỉ huy Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành dẫn 128 chiến thuyền bất ngờ tiến công lực lượng thủy quân hùng mạnh của Nguyễn Nhạc ở cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn). Toàn bộ ghe thuyền và khí giới của Nguyễn Nhạc bị đốt cháy, bị phá hủy hoặc bị cướp đi. Sau cuộc bị tấn công chớp nhoáng ấy, binh đội và nhân dân Quy Nhơn - Quảng Ngãi rất nao núng và cho rằng họ đã “đụng phải thần binh” [2]. Tháng 7 (Nhâm Tý, 1792), vua Quang Trung gửi hịch kêu gọi quân dân Quảng Ngãi, Quy Nhơn đừng sợ, hãy hưởng ứng cuộc tấn công mà ông đang tích cực chuẩn bị, để tiêu diệt Nguyễn Ánh giành lại đất Gia Định.
Đó là những mối bận tâm làm cho vua Quang Trung mất ăn mất ngủ. Đối phó với tình hình quá căng thẳng ấy, vua Quang Trung đã ngã bệnh. Khi biết mình không thể qua được, ông cho mời hai trọng thần là Trần Quang Diệu và Trần Văn Kỷ đến bên giường bệnh dặn dò mọi lẽ.
Sự kiện đó được Đại Nam Liệt Truyện viết như sau:
“Vua Quang-trung Nguyễn Huệ tàn ngược vô đạo, lúc đầu chiếm cứ Đô-thành Phú-xuân, các tôn lăng của Chúa Nguyễn đều bị xâm phạm.
Một hôm về chiều, vua Quang Trung đang ngồi bỗng xây-xẳm tối-tăm thấy một ông già tóc bạc từ trên không trung đến, mặc áo trắng cầm gậy sắt mắng rằng: “Ông cha ngươi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân của Chúa. Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?”
Rồi lấy gậy đánh vào trán. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ mê man ngã xuống hồi lâu mới tỉnh, đem việc ấy nói với quan Trung-thư Trần Văn Kỷ.
Từ đó bịnh chuyển nặng, mới triệu quan Trấn-thủ Nghệ-an Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An. Thương nghị chưa xong thì lúc ấy Thế-tổ triều ta đã khắc phục Gia Định, lấy Bình Thuận Bình Khang Diên Khánh, thanh thế chấn động.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ nghe được lo buồn, bịnh thế ngày càng kịch liệt, vời bọn Diệu dặn rằng: “Ta mở mang cương giới, khai thác đất-đai có trùm cõi Nam phục, nay bịnh ắt không dậy được. Thái-tử tư chất khá cao nhưng tuổi còn bé, ngoài thì có mối thù với nước Gia-Định, vua Thái-đức (Nguyễn Nhạc) tuổi già ham dật lạc tạm yên không lo hậu hoạn. Sau khi ta mất rồi phải trong một tháng lo chôn cất sơ sài cho xong việc mà thôi. Bọn ngươi phải phò Thái-tử sớm dời về Vĩnh-đô để khống chế thiên-hạ. Không như thế khi binh Gia Định ra đến, bọn ngươi không có chỗ chôn đấy”.
Bọn Diệu cùng khóc nhận lịnh, giết ngựa bạch cùng thề.
Ngày 29 tháng 9 vua Quang-trung Nguyễn Huệ băng [3], ở ngôi được năm năm, tuổi mới bốn mươi. Thái-tử Quang Toản nối ngôi, tháng mười an táng vua Quang-trung ở phía nam sông Hương”[4].
3.2. Giữ bí mật tuyệt đối về sự ra đi của vua Quang Trung.
Nội dung trên khái quát những thế lực từ nhiều phía mà vua Quang Trung phải đương đầu: phía Bắc là nhà Thanh, phía Nam là quân Gia Định, các Thừa sai Thiên chúa giáo ở phường Đúc (cách Cung điện của ông chỉ vài cây số) và cả với âm mưu tranh giành quyền lực của Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Nếu giữ bí mật thì phải giữ với tất cả những thế lực ấy. Nhưng sử nhà Nguyễn thì chỉ viết về lực lượng của chính họ. Họ cho rằng Quang Trung sợ lực lượng của Nguyễn Ánh nhất. Bởi thế, tác giả sách Tây Sơn thuật lược dựng việc vua Quang Trung đã nói với triều thần rằng:
“Hắn (tức Nguyễn Ánh) sẽ lập quốc được”.
Khi có một người thưa:
- “Nếu hắn (Nguyễn Ánh) ra thì bọn hạ thần xin đánh” !
Vua Quang Trung liền bảo trong lúc đang bệnh nặng:
- “Ngươi chớ cho lời ta là nói láo. Nếu hôm nay ta chết thì ngày mai hắn ắt ra, nếu mai ta chết thì ngày sau hắn ắt ra. Ngươi còn sống ngươi xem!” [5].
Lời tường thuật trên đầy chủ quan, nhưng dù sao sự chủ quan đó cũng đã được bắt nguồn từ một chút thực tế nào đó. Cảnh giác với lực lượng của Gia Định là điều có thực.
Chưa tham khảo được những sử liệu nói về kế hoạch giữ bí mật của triều Quang Toản về cái chết của vua Quang Trung, nhưng những biểu hiện của kế hoạch đó thì thu thập được khá nhiều.
3.2.1. Giữ bí mật với lực lượng của Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Nghe tin vua Quang Trung mất, anh cả Nguyễn Nhạc dẫn đầu một đoàn đi dự lễ tang từ Quy Nhơn ra hơn 300 người. Đoàn mới ra đến Quảng Ngãi thì bị chặn lại, chỉ để cho một bà chị ra mà thôi [6].
3.2.2. Giữ bí mật ngay cả với quần thần, với những người đã có công xây dựng triều đại Quang Trung. La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là “cố vấn” quan trọng của vua Quang Trung thế mà lúc nhà vua mất ông cũng không biết, khi biết thì ông cũng không được vào để chiêm bái vì đường sá bị “canh nghiêm”. Cuối cùng, Phu Tử phải thể hiện tình cảm quý trọng của mình trong một tờ Biểu. Trong tờ Biểu ấy có những câu:
“Nay xe loan lên tiên (ý nói vua Quang Trung mất). Trông về phương Nam càng thêm thảm thiết. Chỉ vì lúc cung tía (quan tài) còn ở thấn (quàn), đường sá canh nghiêm” (Biểu viết tháng 11 năm Nhâm Tý, 1792) [7].
3.2.3 Bí mật với các giáo sĩ Thiên chúa giáo. Thời các chúa Nguyễn, các giáo sĩ Thiên Chúa giáo thân phương Tây - theo Pierre Poivre - có toà Giám mục ở Phường Đúc (gần Thành Lồi ngày nay). Mọi động tĩnh ở Phú Xuân họ đều theo dõi chặt chẽ, thế mà triều Quang Toản đã giữ được bí mật về cái chết của vua Quang Trung hầu như tuyệt đối.
Cái chết của vua Quang Trung được các vị Thừa sai Thiên chúa giáo ghi nhận sớm nhất vào cuối tháng 12-1792. Cái ngày này được ghi trong lá thư của ông Longer - Giám mục cai quản địa phận miền Tây Bắc Hà (Tonkin Occidental) gởi cho ông Blandin - đại biểu của Hội truyền giáo Bắc Hà. Lá thư có đoạn viết:
“Người ta cũng nói rằng em Tiếm Vương (tức vua Quang Trung, em của Nguyễn Nhạc) ấy, người cai trị Bắc Hà và Nam Hà thượng đã chết vì bệnh và một trong những người con trai của ông lên nối ngôi... Tuy nhiên, những tin tức đó cần được xác nhận lại...” [8].
Ngày 16-9-1792 được cho là ngày vua Quang Trung qua đời, mãi đến ngày 21-12-1792, các vị Thừa sai mới hay tin và viết thư cho nhau, tức là chậm mất 3 tháng 5 ngày, và đến lúc đó vẫn chưa dám chắc rằng vua Quang Trung đã qua đời.
Ngày 10-2-1793, ông Longer gửi thư cho Blandin tiếp tục nói về cái chết của vua Quang Trung sau khi người phụ tá của ông ở Kẻ Vinh (Nam Định) báo cáo cho ông một số thông tin cụ thể hơn. Thư có đoạn viết:
“Ông La Mothe cũng báo cáo cho tôi rằng: Cái chết của Tiếm Vương Quang Trung được giữ bí mật gần hai tháng trời mới được công bố bởi sắc lệnh bắt buộc toàn quốc chịu tang một vị thượng hoàng đế anh minh như ông...” [9].
Biện pháp giữ được bí mật lúc ấy là cấm đường như đã đề cập qua trong đoạn 3.2.2. Trong thư viết của Bố Chính đề ngày 6-6-1793, giáo sĩ Sérard truyền đạo ở Kẻ Vinh (Nam Định) gửi cho ông Boiret và Descourvrière xác định các biện pháp cấm đường và nói kỹ hơn:
“Ở đây sẽ khó khăn hơn vì xa xôi, và vì canh gác nghiêm mật ở thành lũy phân chia Bắc Hà và Nam Hà... Đường biển cũng như đường núi được canh chừng cẩn mật” [10].
3.2.4. Bí mật đối với nhà Thanh. Đối với nhà Thanh, triều Quang Trung và sau đó là Quang Toản, mặc dù phải cảnh giác cao độ nhưng phải tế nhị. Triều Quang Toản đã cử Ngô Thời Nhậm dẫn đầu một đoàn ngoại giao qua Trung Quốc báo tang và xin cầu phong cho vua mới. Để che giấu hành vi đối phó của mình, sứ đoàn báo cáo vua Quang Trung đã mất vào tháng 9 (âm lịch), chậm hơn hai tháng và táng ở Linh Đường (Hà Nội).
Thông thường một đám tang vua có hai sự việc không thể giữ bí mật : Một là đoàn đưa tang tử cung vua đến nơi táng vua, không thể cấm thần dân đứng dọc đường chiêm bái vua; hai là nơi táng vua sẽ dựng lên bao nhiêu kiến trúc để cho hàng trăm người ăn ở, thờ phụng, bảo vệ lăng. làm sao giữ bí mật được! Do đó, triều Quang Toản muốn giữ được bí mật tuyệt đối thì không đưa tang vua Quang Trung ra khỏi cung điện - nơi ông vừa qua đời và táng vua ngay trong khuôn viên cung điện của ông - nơi ngoài gia đình và những quan lại thân cận mới được tới lui. Từ đó, cung điện của ông trở thành lăng mộ của ông. Như vậy, không có gì khó hiểu về thông tin Ngô Thì Nhậm chú thích cho cụm từ Cung điện Đan Dương trong bài thơ Cảm Hoài “Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta”. Nhờ Ngô Thì Nhậm, chúng ta biết được cung điện của vua Quang Trung tên là Đan Dương. Sau khi vua Quang Trung mất, triều Quang Toản giữ bí mật và táng vua ngay trong Cung điện. Cung điện Đan Dương trở thành lăng Đan Dương [11]. Qua thông tin này, chúng ta biết được cung điện của triều Quang Trung có tên là Đan Dương.
Sau hai tháng lo tang lễ, chuẩn bị lực lượng đối phó với các thế lực trong Nam, ngoài Bắc, triều Quang Toản thông báo cho thần dân được biết vua Quang Trung đã qua đời để cho trăm họ chịu tang. Đồng thời, cử sứ đoàn Ngô Thì Nhậm sang Trung Quốc báo tang. Ngày vua Quang Trung mất tăng thêm hai tháng. Nơi táng vua Quang Trung báo với nhà Thanh là ở Linh Đường (Hà Nội).
Tuy nhiên, việc giữ bí mật nơi táng vua Quang Trung không thể qua mặt được bà Ngọc Tuyên - “Bà Vải Vân Dương” - cô ruột của Nguyễn Ánh - người đã dụ được tướng Lê Chất của Tây Sơn theo Nguyễn Ánh. Bên cạnh đó, nội bộ triều Quang Toản chống nhau quyết liệt, Thái sư Bùi Đắc Tuyên bị giết (1795), thế thì có chuyện gì bí mật của triều đình Quang Trung - Quang Toản mà không bị “bật mí” (!)
3.3. Lăng mộ vua Quang Trung táng trong Cung điện Đan Dương.
Ngày 29-7 (nhuận) năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung mất. Ngô Thì Nhậm được cử sang Trung Quốc báo tang và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh (Quang Toản). Vì uy tín của vua Quang Trung rất lớn, Thanh triều lúc ấy đã có những nghi lễ đón tiếp trọng thị. Điều đó làm cho Ngô Thì Nhậm càng cảm niệm công ơn to lớn của vua Quang Trung. Trong khi đang xúc động ấy, ông đã viết bài Cảm hoài 感 懷 (Xúc động trong lòng). Câu 8 bài thơ: “Đan Dương cung điện nguyệt tam thu” (丹 陽 宮 殿 月 三 秋) (Trông về Cung điện Đan Dương một tháng coi bằng ba thu). Tác giả giải thích rõ thêm hai chữ Đan Dương bằng một lời chú (référence) gần đầy một trang sách. Trong lời chú ấy, có thông tin 丹陽宮殿奉我先皇藏宝衣之山 Đan Dương cung điện phụng ngã tiên hoàng tàng bảo y chi sơn“ (Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta).
H.3.1. Lời chú bài thơ Cảm Hoài của Ngô Thì Nhậm trong tập Hoàng Hoa Đồ Phả (tr. 12b), ký hiệu A.2871, Viện Hán Nôm 183 Đặng Tiến Đông, Hà Nội.
Nhờ lời chú trong bài thơ Cảm hoài của Ngô Thì Nhậm, ta biết được Đan Dương là Cung điện chính của vua Quang Trung và khi Vua mất thì được táng ngay trong Cung điện ấy.
Không những trong bài Cảm hoài mà trong nhiều bài thơ khác, Ngô Thì Nhậm cũng nhắc đến Đan Dương Lăng, Đan Lăng. Xin trích một số dẫn chứng:
- Bài thơ “Đạo ý” 導意 có viết “Vọng Đan Dương” 望丹陽 [12]
- Bài “Khâm vãn Đan Dương Lăng” (欽輓丹陽陵 Kính viếng Lăng Đan Dương).
- Bài “Sóc vọng thị tấu nhạc,Thái Tổ miếu, cung ký” [13] (朔望是奏樂太祖廟恭 記 Ngày lễ rằm, mồng một tấu nhạc miếu Thái Tổ, kính ghi) có câu: “Đan Lăng thức mục tử vân thâm” (丹陵拭目紫雲深 Chốn Đan Lăng ngước mắt, áng tử vân âm u).
- Bài “Tòng giá bái tảo Đan Lăng, cung ký” (從駕拜掃丹陵恭記 Theo xa giá đi bái tảo Đan Lăng, kính ghi) [14]. Trong bài thơ này lại có câu: “Sơn Lăng vạn cổ điện Thần kinh” (山陵萬古奠神京 Sơn Lăng muôn thuở ở chốn Kinh đô).
Phan Huy Ích, người em rể của Ngô Thì Nhậm, cũng đã nhiều lần đề cập đến Đan Lăng 丹陵. Trong một bài thơ xướng họa với ông anh vợ đồng triều, Phan Huy Ích tâm sự về nỗi nhớ tiếc cuộc gặp gỡ của hai người với vua Quang Trung, khó lòng tìm được một cuộc gặp gỡ như thế nữa. Trước khi viết bài thơ mang số 282, ông đã viết một nguyên dẫn với câu:
“Khúc Đan Dương 丹陽 ở trước mặt, muôn nỗi cảm hoài ” [15].
Năm 1799, bà Thái Vũ Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân mất, Phan Huy Ích viết hộ cho vua Quang Toản một điếu văn. Trong điếu văn, tác giả đã để lộ thông tin cho biết triều Quang Toản đã thỏa mãn nguyện vọng muốn được mãi mãi ở cạnh vua Quang Trung của bà Ngọc Hân, do đó, triều đình đã cho táng bà bên cạnh lăng vua Quang Trung, tức Đan Dương. Điếu văn có đoạn:
“Nguyện cũ hẳn nay lọn vẹn
Bên Đan Lăng 丹陵 quanh quất mạch liên châu” [16].
Ngoài Kinh thành Phú Xuân, không rõ vua Quang Trung có mấy cung hành tại (hành cung); nhưng qua thơ văn của Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, chúng ta biết được vua Quang Trung có một cung điện ở vùng núi có tên là Đan Dương 丹陵. Sau ngày vua Quang Trung mất, Cung điện Đan Dương được chuyển làm lăng của vua Quang Trung với tên gọi Đan Lăng 丹陵 , Đan Dương Lăng 丹陽陵 hay Sơn Lăng 山陵. Đan Lăng là lăng đỏ. Ngày xưa đặt tên đất theo Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), những di tích phía nam có mang ý nghĩa đỏ (phía bắc màu đen, phía đông màu xanh, phía tây màu trắng và trung tâm màu vàng). Như thế, vị trí của Đan Lăng nằm về phía nam của Kinh đô Phú Xuân lúc ấy.
Đan Dương là “mặt trời đỏ”, màu đỏ ấy đúng với tính cách của vua Quang Trung mà Ngọc Hân công chúa đã khóc ông :
“Mà nay áo vải, cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình” [17].
Hai chữ Sơn Lăng 山陵 cũng gợi lên hình ảnh cái lăng ở vùng núi. (Trong thực tế, vùng đồng bằng xứ Huế hay bị ngập lụt, lăng mộ của vua chúa thường nằm trên vùng núi cả). Đan Lăng tọa lạc ở vùng núi nào ?
3.4.Nguyễn Ánh “Vì chín đời mà trả thù”.
Hai mươi bốn năm nằm gai nếm mật chống Phong trào Tây Sơn, khi Nguyễn Ánh khôi phục được Phú Xuân, ông đã trả thù Phong trào Tây Sơn một cách nghiệt ngã và công bố công khai.
Sách Đại Nam Thực Lục Chính biên của Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đệ nhất kỷ, Q.XV, tr.26a cho biết :
Tháng 11 Tân dậu, “hủy Tây Sơn tặc Nguyễn Văn Huệ mộ, trác quan lục thi kiêu kỳ thủ vu thị” Dịch: phá huỷ mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng (hòm), phơi thây, bêu đầu ở chợ” [18]
H.3.2.Quốc sử quán Triều Nguyễn, ĐNTCB, Đệ nhất kỷ, Q.XV, tr. 26a.
Lăng mộ của Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) đã bị hủy. Nhưng lăng mộ đó ở đâu thì không thấy Thực Lục thông tin. Phải đợi đến hơn 50 năm sau (1852), Nguyễn Trọng Hợp và các sử thần ngồi ở Quốc Sử quán trong Kinh thành viết bộ Đại Nam chính biên liệt truyện (sơ tập), trong Quyển XXX “Ngụy Tây”, khi viết về tiểu sử vua Quang Trung mới hé cho biết lăng mộ vua Quang Trung đã được “táng vu Hương Giang chi nam” (葬 于香江之南) – (táng ở bờ nam sông Hương). (Xem H.2.2).
H.3.3. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập. Q.30 “Ngụy Tây”, tr. 43a, dòng thứ nhất (phải) viết: “Quang Toản tự ngụy vị, thập nguyệt, táng vu Hương Giang chi nam” Dịch: Quang Toản nối ngôi, tháng 10 an táng (vua Quang Trung) ở phía nam sông Hương” [19] .
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn dành trọn Q.30 trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Sơ tập, viết về Phong trào Tây Sơn. Sách đã ghi lại việc các lãnh tụ Phong trào Tây Sơn đã bị trả thù như thế nào. Cuối Q.30, sách tóm lược những việc vua Thế Tổ (Gia Long) đã “tận pháp trừng trị” nhà Tây Sơn như thế nào. Tr.55b, Q.30, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện viết:
“Thị đông xa giá hoàn Kinh, cáo miếu Hiến Phù, tận pháp trừng trị, quật phá Nhạc Huệ mộ, đào khí hài cốt, u kỳ đầu vu ngục thất, cải Tây Sơn ấp viết An Tây ấp” Dịch : Mùa đông ấy (1801) xa giá [của Thế tổ] trở về Kinh (Đô Phú Xuân) , báo cáo ở Tông miếu và dâng hiến tù binh, tội phạm Tây Sơn đều bị giết để trừng trị, đào phá mộ (của Nguyễn) Nhạc, (Nguyễn) Huệ, giã nát và đổ bỏ, nhốt sọ đầu vào nhà ngục, đổi tên ấp Tây Sơn gọi là ấp An Tây” [20] .
H.3.4. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, Q.30, tr.55b “đổi tên ấp Tây Sơn gọi là ấp An Tây”.
Đoạn sử cho biết, nhiều người liên quan với Phong trào Tây Sơn bị giết, lăng mộ bị quật phá đổ bỏ và cái tên quê hương Tây Sơn cũng bị đổi thành An Tây. Việc đổi tên địa danh liên quan đến Phong trào Tây Sơn cũng bị đổi. Ví dụ Phủ Quy Nhơn/Thành Hoàng đế đổi thành Bình Định.
Ta có thể tưởng tượng cảnh đập phá đó kinh khủng như thế nào qua lời lên án của ông Barisy - một nhân chứng có mặt trong đoàn quân của Nguyễn Vương khi trở lại Phú Xuân, sau đây:
“Nguyễn Vương đã để cho cướp phá tất cả dinh thự của các tướng địch (Tây Sơn) và tôi tức giận các binh lính đã đập vỡ và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tay họ; chắc chắn có những toà nhà tuy xây cất theo lối Trung Hoa nhưng nếu ở Paris thì có lẽ được coi là những lâu đài tráng lệ, nhiều vườn đẹp trồng nhiều dị thảo và nhiều bình choé Nhật Bản”[21] .
Toàn bộ đồ đồng, tiền đồng của Nguyễn Huệ/Quang Trung, phong trào Tây Sơn bị nhà Nguyễn nấu chảy đúc thành chín khẩu thần công (cửu vị thần công) chia làm hai nhóm Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ và Xuân Hạ Thu Đông đặt trước Ngọ Môn.
H.3.5. Cửu vị Thần công đặt trước Ngọ Môn (từ thời Gia Long đến đầu thời Khải Đinh)
H.3.6A. Năm khẩu Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ đặt bên trong cửa Thể Nhân
H.3.6B Bốn khảu Xuân Hạ Thu Đông đặt bên trong cửa Quảng Đức. Ảnh của TTBTDT Cố đô Huế.
3.5. Nương theo thông tin lăng mộ vua Quang Trung, tìm địa điểm Cung điện Đan Dương.
Vua Quang Trung được “táng ở bờ nam sông Hương”.
Phan Huy Ích là một trọng thần thời Quang Trung - Quang Toản ở Phú Xuân, ông có nhiều bài thơ liên quan đến Phú Xuân thời Quang Trung - Quang Toản. Trong nguyên dẫn bài thơ Mùa Xuân Ở Công Quán Ghi Việc [22], Phan Huy Ích viết:
“Nhà của quan Thái sư (Bùi Đắc Tuyên) là chùa Thiền Lâm cũ nằm phía nam sông Hương nha thuộc cũng theo đến ở chung quanh chùa. Giữa tháng ba, tôi [tức Phan Huy Ích] tới nhà trọ Kinh đô, cũng gần nơi ông ở. Chỗ này vườn tược rộng rãi, cây cối xanh um, bốn bề những núi cùng mây, mắt nhìn lòng nghĩ cũng khá thoải mái, trừ những đêm họp bàn việc công ra, còn thì tha hồ ngâm thơ uống rượu, kể cũng thú, duy nỗi lòng thương nhớ người nhà vẫn không nguôi”:
“Trời mở ra dinh tòa ở chốn đồng quê
Xe ngựa tụ họp đến sân ngôi chùa cũ.
Trên tòa đêm khuya, cuộc họp bàn chưa giải tán,
Chỗ trọ nơi nhà chùa, giấc ngủ quá trưa mới tỉnh”. (A)
NGUYÊN CHÚ:
(A) “Quan Thái sư vì việc quan, đêm thường ra ngoài tòa làm việc, canh tư mới tan, đã thành lệ, những người giúp việc ứng trực cũng đã quen”.
Lời dẫn chỉ có 98 từ đã cho ta những thông tin quý:
- Chùa Thiền Lâm nằm phía nam sông Hương, chứng tỏ lăng mộ vua Quang Trung cùng nằm một hướng «phía nam sông Hương» với chùa Thiền Lâm.
- Thái sư Bùi Đắc Tuyên chiếm chùa Thiền Lâm ở, tất cả các cơ quan làm việc của triều Quang Toản đều phải dọn đến ở chung quanh chùa, biến chùa Thiền Lâm trở thành cung đình đầu triều Quang Toản;
- Các chùa chung quanh chùa Thiền Lâm bị trưng dụng làm nhà trọ Kinh đô hay là nơi làm việc của các cơ quan của triều Quang Toản;
- Khu vực chung quanh chùa Thiền Lâm “rộng rãi, cây cối xanh um, bốn bề những núi cùng mây, mắt nhìn lòng nghĩ cũng khá thoải mái”;
- Thái sư Bùi Đắc Tuyên làm việc ban đêm, ban ngày ngủ.
Đặc biệt trong tập Dật Thi Lược Toản còn có bài thơ không tên sau đây:
H.3.7. Trích Viện Hán Nôm (Hà Nội), Dụ Am Ngâm Lục, kí hiệu A.603, tr.256 (Nguyễn Tấn Cường – Viện trưởng Viện Hán Nôm cung cấp. Chân thành cám ơn. NĐX)
Bài thơ 4 dòng bên trái:
Phiên âm
Khí trí đào danh xử bất tài,
Khưu viên ký hoạn hoán nhàn lai.
Tễ nghinh hiểu thự yên hà nhiễu,
Lương nạp thu phong hộ dũ khai.
Một sự dung nô miên thụ ấm,
Đa tình hiệp khách hựu hà bôi (A).
Khu đình xuất nhập tàm vô trạng,
Độc hạ quân tri chỉ dục hồi. (B)
Dịch nghĩa
Bỏ khôn, trổn danh, tự coi mình như kẻ bất tài,
Đồi nương nơi làm quan xa như gọi cảnh nhàn đến.
Lầu sớm nắng hoe, mây khói lượn quanh,
Gió thu mát mẻ, cửa ngõ rộng mở.
Rảnh việc, đầy tớ lười ngủ dưới bóng cây,
Đa tình, người khách thân cùng ta nâng chén. (A)
Ra vào nơi cơ mật, thẹn mình không có công trạng,
May nhờ ông biết cho, chỉ rõ rằng ta muốn về. (B)[23] .
Sau câu thứ 6 và sau câu thứ 8 có hai lời chú, tạm ghi là (A) và (B).
Tôi quan tâm đến lời chú (A):
時 守 凌 諸 小 監 數 來 陪 飲
Thời thủ lăng chư tiểu giám sổ lai bồi ẩm
Nghĩa: Lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu.
Bình luận:
Lăng mà bọn tiểu giám giữ phải ở gần chùa Thiền Lâm thì bọn tiểu giám mới thường đến hầu rượu Phan Huy Ích trong nhà trọ gần chùa Thiền Lâm được;
Lăng có Tiểu giám giữ phải là lăng vua, vua ở đây không ai khác là vua Quang Trung;
Như vậy lăng mộ vua Quang Trung nằm cùng hướng “nam sông Hương” với chùa Thiền Lâm và tọa lạc ở một nơi cũng gần chùa Thiền Lâm.
Chùa Thiền Lâm trở thành một tâm điểm cần phải khám phá.
Đọc thêm
Phụ lục 3
Nguyên chú bài thơ Cảm Hoài của Ngô Thì Nhậm
Phụ lục 4
Vua Gia Long trả thù nhà Tây Sơn
Phụ lục 5
Hận thù vay trả
Phụ lục 6
Về cái chết của vua Quang Trung
[Đọc tiếp Phủ Dương Xuân - tiền thân của Cung điện Đan Dương: Chương IV - Chùa Thiền Lâm chồng chất những bí ẩn]
[1] Viện Sử học, Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987, tr.104.
[2] Trích lại của Nguyễn Lộc, Văn học Tây Sơn, VHTT Nghĩa Bình, Quy Nhơn 1986, tr.102.
[3] Chậm hai tháng so với sự thật. NĐX
[4] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Chính biên liệt truyện Nhà Tây Sơn, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc trách Văn hóa, SG 1970, tr.171-175.
[5] Vô danh thị, Tây Sơn thuật lược, Phủ QVK PTVH, SG.1971, tr.17.
[6] Đỗ Bang, Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, Sở VHTT BTT, Huế 1988, tr.102-103.
[7] Trích lại của Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử, Nxb Minh Tân, Paris 1952, tr.161-162.
[8] Đặng Phương Nghi, Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà Truyền giáo Tây phương, T/s Sử Địa, số 13 năm 1969, tr. 152.
[9] Như [8].
[10] Như [8], tr.153.
[11] Có một trường hợp tương tự mà bất cứ ai cũng có thể kiểm chứng được: Vua Tự Đức cho xây dựng Khiêm Cung để ông sống nghỉ ngơi vui chơi gần hai mươi năm (1864-1883), sau khi mất, ông được táng trong Khiêm Cung. Từ đó Khiêm Cung trở thành Khiêm Lăng, vai trò của Khiêm Cung không còn được nhắc đến nhiều nữa. NĐX
[12] Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập I, tr.196.
[13] Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập I, tr.230.
[14] Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập I, tr.230.
[15] Thơ văn Phan Huy Ích, tập III, "Dụ Am ngâm lục", KHXH, H. 1978, tr.43.
[16] Hoàng Thúc Trâm, Quốc văn đời Tây Sơn, Vĩnh Bảo, SG. 1950, tr.40.
[17] Lê Ngọc Hân, Ai Tư Vãn, câu 67-68, trích lại của Phạm Văn Đang, Văn học Tây Sơn, Nxb Lửa Thiêng, SG. 1973, 105.
[18] Đại Nam Thực lục Chính Biên, t.I, Nxb Giáo Dục, HN 2002, tr. 473.
[19] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Nhà Tây Sơn, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc tránh Văn Hóa, Sài Gòn 1970,tr.174-175.
[20] Như [19], tr.224-225.
[21] Đặng Phương Nghi, Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến chúa Nguyễn Huệ, Tập san Sử Địa số 9-10, tr.235.
[22] Nguyên dẫn và bài thơ Mùa xuân ở công quán ghi việc của Phan Huy Ích cho biết chùa Thiền Lâm nằm ở phía nam sông Hương. (Uỷ ban KHXH Việt Nam – Ban Hán Nôm: Thơ văn Phan Huy Ích, tập II, “Dụ Am ngâm lục”, KHXH, H.1978, tr.86-87).
[23] Bài thơ với lời chú (A) nầy đã đăng trong Thơ văn Phan Huy Ích tập II, Dụ Am Ngâm Lục, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1978, tr.122-124, trước đây tôi đã trích dẫn nhiều lần trong sách Đi tìm dấu tích Cung điện Đan dương-sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung.