Thông tin của liên ngành khoa học đã dẫn tôi đến Cung điện Đan Dương (Thuyết trình với CLB Văn hóa Huế tại Thủ đô Hà Nội, ngày 26-11-2017)

Tôi đến được Cung điện Đan Dương nhờ thông tin của liên ngành khoa học...

Từ hàng chục năm qua, qua nhiều phương tiện truyền thông nhiều độc giả đã hỏi tôi:

- “Sau ngày trở lại Phú Xuân (mùa hè năm 1801), Nguyễn Vương – sau nầy là vua Gia Long, đã thực hiện chính sách “tận pháp trừng trị” nhà Tây Sơn – một đồng xu thuộc về triều đại Tây Sơn cũng bị nấu chảy, toàn bộ tư liệu lịch sử có liên quan đến triều Tây Sơn đều bị hủy, vì thế mà các nhà sử học suốt thế kỷ XX đều không thể xác định được nơi trị vì và lăng mộ vua Quang Trung ở đâu trên đất Huế cả. Vậy bằng cách nào ông có thể nghiên cứu tìm được Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung ở Huế như ông đã công bố?”

Trả lời câu hỏi nầy phải viết một bài khá dài, phải giải quyết bao nhiêu chuyện khúc mắc nữa nên tôi không thể trả lời một cách đầy đủ được. Tôi chỉ đáp một cách chung chung - ai hiểu sao thì hiểu- rằng:

- Bằng thông tin trong kho Huế học của tôi.

Nhiều người đồng ý nhưng cũng có lắm người không bằng lòng.

Đến nay tôi đã hoàn thành công việc nghiên cứu, đã xuất bản hai cuốn sách quan trọng nhất của cuộc đời nghiên cứu của tôi:

- Thiền Lâm – ngôi chùa lịch sử - Thiền viện đầu tiên lớn nhất ở xứ Đàng Trong

- Phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn – Tiền thân của Cung điện Đan Dương – Sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung ở Huế.

Tôi không thể vô trách nhiệm với độc giả của mình nữa. Hôm nay tôi rất hân hạnh được trình bày đầy đủ với các thành viên CLB Văn hóa Huế ở Thủ đô Hà Nội sau đây:

- Tôi đến được Cung điện Đan Dương nhờ thông tin của liên ngành khoa học bao gồm lịch sử (thông sử và Phật giáo xứ Đàng Trong), địa lý lịch sử, địa phương học, văn học cổ (Việt Nam, Trung Quốc, Pháp, Anh), văn học dân gian, ngôn ngữ học, thảo mộc học, địa phương học và thuật Phong thủy.v.v. Tất cả tư liệu của liên ngành khoa học đó các nhà nghiên cứu VN đều có thể có. Nhưng muốn tập trung đầy đủ các tài liệu đó vào một chỗ không thể thực hiện trong một thời gian theo ý muốn của nhà nghiên cứu. Và, muốn sử dụng được nguồn tư liệu đó nhà nghiên cứu phải hiểu rõ lịch sử Triều Nguyễn, hiểu rõ Phong trào Tây Sơn, phải được các chuyên gia về Phong thủy làm cố vấn và đặc biệt phải được người địa phương tin yêu hướng dẫn mới thực hiện được.

2. Tìm xem trong kinh sử, tìm trong câu thơ cổ.

Vốn là một người làm thơ, rất thích nhạc Phạm Duy. Không nhớ những câu ca nầy trong bài Tìm Nhau đã ấn vào tiềm thức của tôi từ tháng năm nào, nhưng nó đã dẫn dắt tôi vào con đường đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương-sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung.

Tìm xem trong kinh sử

Tìm trong câu thơ cổ

2.1. Câu thơ cổ đầu tiên tôi tìm thấy là bài Cảm Hoài của Ngô Thì Nhậm.

Ngày 29-7 (nhuận) năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung mất. Ngô Thì Nhậm được cử sang Trung Quốc báo tang và cầu phong cho vua Quang Toản/Cảnh Thịnh. Vì uy tín của vua Quang Trung rất lớn, Thanh triều lúc ấy đã có những nghi lễ đón tiếp Ngô Thì Nhậm rất trọng thị. Điều đó làm cho Ngô Thì Nhậm càng cảm niệm công ơn to lớn của vua Quang Trung. Trong khi đang xúc động ấy, ông đã viết bài Cảm hoài  (Xúc động trong lòng). Câu 8 bài thơ: “Đan Dương cung điện nguyệt tam thu” (丹 陽 宮 殿 月 三 秋) (Trông về Cung điện Đan Dương một tháng coi bằng ba thu). Tác giả giải thích rõ thêm hai chữ Đan Dương bằng một lời chú (référence) gần đầy một trang sách. Trong lời chú ấy, có thông tin 丹陽宮殿奉我先皇藏宝衣之山 Đan Dương cung điện phụng ngã tiên hoàng tàng bảo y chi sơn“ (Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta).

Nhờ lời chú trong bài thơ Cảm hoài của Ngô Thì Nhậm, (và nhiều bài thơ khác của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Lê Ngọc Hân) tôi biết được Đan Dương là Cung điện chính của vua Quang Trung và khi Vua mất thì được táng ngay trong Cung điện ấy - Cung điện Đan Dương trở thành Đan Dương Lăng (丹陽陵)

 

H.1. Lời chú bài thơ Cảm Hoài của Ngô Thì Nhậm trong tập Hoàng Hoa Đồ Phả (tr.12b), ký hiệu A.2871, Viện Hán Nôm 183 Đặng Tiến Đông, Hà Nội.

2.2. Cung điện Đan Dương/lăng Đan Dương ở đâu ?

Trong tập Dật Thi Lược Toản của Phan Huy Ích – em rễ của Ngô Thì Nhậm, một trọng thần thời Quang Trung-Quang Toản có một bài thơ không tên. Tác giả làm bài thơ không tên nầy lúc ông đang ở trọ trong một ngôi chùa tọa lạc gần chùa Thiền Lâm để hằng đêm làm việc với Thái sư Bùi Đắc Tuyên thời Quang Toản. Câu thứ sáu bài thơ ấy viết :

“Đa tình hiệp khách hựu hà bôi”

(Nghĩa : Đa tình, người khách thân cùng ta nâng chén).

Và được tác giả ghi thêm một lời chú:

“時 守  凌 諸  小 監 數 來 陪 飲”

(Phiên âm: Thời thủ lăng chư tiểu giám sổ lai bồi ẩm)

(Nghĩa: Lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu).

Bình luận: Lăng có Tiểu giám giữ phải là lăng vua. Lúc bầy giờ (sau năm 1792) không có lăng vua nào khác ngoài vua Quang Trung. Lăng vua Quang Trung ở gần chùa Thiền Lâm thì hằng ngày bọn Tiểu giám mới đến hầu rượu Phan Huy Ích được. Câu thơ cổ với lời nguyên chú ấy cung cấp cho tôi thông tin lăng mộ vua Quang Trung (Đan Lăng) ở gần chùa Thền Lâm.

 

H.2. Trích Viện Hán Nôm (Hà Nội), Dụ Am Ngâm Lục, kí hiệu A.603, tr.256 (Nguyễn Tấn Cường – Viện trưởng Viện Hán Nôm cung cấp. Chân thành cám ơn. NĐX)

2.3. Vậy chùa Thiền Lâm ở đâu?

Tìm trong bộ Địa lý lịch sử lớn nhất của triều Nguyễn mang tên Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) xuất bản thời Duy Tân. Trong cuốn ĐNNTC Thừa Thiên Phủ tập thượng cho biết chùa Thiền Lâm ở xã An Cựu. Tôi mất ba năm đi tìm chùa Thiền Lâm ở xã An Cựu mà không thấy.

 

H.3. Bản gốc chữ Hán ĐNNTC (đời Duy Tân) - tỉnh Thừa Thiên, tập thượng, tại trang 45a & 45b viết: “Thiền Lâm tự tại An Cựu xã”.

Cuối cùng tôi nhờ bài thơ Kinh Thiền Lâm Phế Tự Cảm Tác của Phan Huy Ích, nhờ bản thảo ĐNNTC biên soạn thời Tự Đức mà không khắc in và nhờ sơ đồ các chùa Phật ở Huế trong Hàm Long Sơn Chí của Điềm Tịnh Cư sĩ - tôi xác định được chùa Thiền Lâm ở xã Dương Xuân cũ ứng váo số 150 đường Điện Biên Phủ ngày nay.

 

H.4.1 “Tự tại Dương Xuân xã sơn -

Chùa Thiền Lâm tại xã Dương Xuân (Phan Huy Ích).

 

H.4.2. ĐNNTC thời Tự Đức viết các chùa Kim Tiên 金仙, Tuệ Lâm ,  Từ Đàm 慈曇, Thiền Lâm đều ở ấp Bình An.

 

H.4.3.Chùa Thiền Lâm mang số 3 trên bản đồ Hàm Long Sơn Chí nàm ở trung độ con đường từ bờ sông Lợi Nông lên đàn Nam Giao thuộc xã Phú Xuân (tức thuộc xã Dương Xuân cũ) chứ không phải xã An Cựu.

Lần đầu tiên tôi khám phá ra sự thực: Lăng Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm. Nhà Nguyễn đã hủy diệt lăng Đan Dương. Nếu viết đúng địa chỉ chùa Thiền Lâm ở xã Dương Xuân thì qua đó bá tánh có thể tìm được dấu tích lăng Đan Dương. Cho nên địa lý lịch sử triều Nguyễn soạn thời Tự Đức viết chùa Thiền Lâm ở xã Dương Xuân là không ổn nên không cho khắc in. Đã giấu nơi tọa lạc của Cung điện Đan Dương/lăng Đan Dương thì phải chuyển chùa Thiền Lâm qua một địa chỉ mơ hồ để không ai có thể xác định được. Cho nên triều Duy Tân phải chuyển địa chỉ chùa Thiền Lâm qua một địa chỉ không rõ ràng ở xã An Cựu mới cho khắc in ĐNNTC. Cho đến cuối thế kỷ XX, trước tôi chưa có ai khám phá ra được điều ẩn giấu nầy.

2.3. Tìm hiểu chùa Thiền Lâm

Theo ĐNNTC biên soạn thời Tự Đức cũng như ĐNNTC khắc in thời Duy Tân đều cho biết “Tương truyền do Hòa thượng Thạch Liêm dựng lên”. Hòa thượng Thạch Liêm tức là Hòa thượng Thích Đại Sán người Trung Quốc, năm 1695 được chúa Nguyễn Phúc Chu mời qua Thuận Hóa hoằng dương Đạo Phật. Sau chuyến đi Thuận Hóa của nước Đại Việt về nhà ông viết cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự. Tra cứu trong Hải Ngoại Kỷ Sự  được biết Hòa thượng lúc mới đến Thuận Hóa được chúa Nguyễn Phúc Chu bố trí cho ở lại tại chùa Thiền Lâm – một nơi rất gần với Phủ Dương Xuân của Chúa. Điều đó chứng tỏ chùa Thiền Lâm thuộc Phủ Chúa và ở gần Phủ Chúa. Như vậy ĐNNTC thời Duy Tân viết không đúng. Khi Hòa thượng Thạch Liêm đến Thuận Hóa thì chùa Thiền Lâm đã có rồi. Nhưng chùa nhỏ tối tăm không đủ chỗ cho mười người ở. Để đáp ứng nhu cầu của hàng ngàn người đến thọ giáo với Hòa thượng Thạch Liêm, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây dựng chùa Thiền Lâm thành một Thiền Viện lớn nhất ở xứ Đàng Trong. Cho nên không thể viết Thạch Liêm dựng lên chùa Thiền Lâm mà phải viết Hòa thượng Thạch Liêm dựng lên Thiền Lâm viện mới đúng.

 

H.5. Thích Đại Sán. Hải ngoại kỷ sự. Sử liệu nước Đại Việt thế kỷ XVII. Nxb Viện Đại học Huế. Ủy Ban phiên dịch sử liệu Việt Nam 1963

2.4. Chùa Thiền Lâm ở đó, còn Phủ Dương Xuân ở đâu?

ĐNNTC cho biết Phủ Dương Xuân trên gò Dương Xuân nhưng “自涇兵亂今失其處”– Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ (Từ sau khi bị binh hỏa đến nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào) [1]. Thật vô lý, ngọn lửa chiến tranh có thể đốt cháy phần kiến trúc bằng gỗ, tranh tre nứa lá chứ làm sao có thể đốt cháy được phần móng bằng đá, làm sao có thể hủy được nền đất nơi dựng Phủ?

 

H.6. ĐNNTC, Thừa Thiên Phủ, tập thượng, Dương Xuân Cương (Gò Dương Xuân), tr. 26b.

2.5. Vậy Phủ Dương Xuân như thế nào?

Theo ĐNNTC viết Phủ đã mất tích, bị “binh hỏa” xóa sạch rồi thì làm sao biết được? Không thể dựa vào thơ văn cổ, vào Địa lý lịch sử Việt Nam, tôi xoay qua tìm thông tin từ các nhà Truyền giáo, các nhà buôn phương Tây đã đến Thuận Hóa cuối thời các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong. 

Một điều thú vị là tôi tìm được ký sự của nhiều khách phương Tây đã được Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát/ Hoạt tiếp ở phủ Dương Xuân. Theo Nhật ký du hành của James Bean (người Anh) [2]. Ngày 15-1-1765, J. Bean được diện kiến và được chiêu đãi sau khi ông tiến dâng lễ vật, ông được vời vào Vương phủ tại “Cung điện mùa đông và mùa mưa” bên hữu ngạn “Sông Huế” [3]. J. Bean viết: Chúng tôi xin phép được quan chiêm cung điện của chúa. Ngài trả lời rằng đây không phải là cung điện nguy nga mà chỉ là “phủ mùa đông”; “ở đây cũng có cung phi mỹ nữ[4].

Trước James Bean có nhà buôn Pierre Poivre.

Theo Pierre Poivre cung điện Mùa Đông (tức Phủ Dương Xuân) được xây dựng cũng theo qui cách của điện chính (ce palais d’hiver est construit sur le modèle du grand...) [5]. Điện chính lúc ấy là Đô thành Phú Xuân (bên trong cửa Thượng Tứ ngày nay). Trong Kỷ hành (Voyage) của Pierre Poivre cho biết quy mô và vị trí Phủ Dương Xuân so với Cung điện chính ở Phú Xuân là:

le second palais, qui est plus petit, est bâti sur une élévation un peu éloignée de la rivière et n’a qu’une aile qui regarde du côté de l’eau. Le Roy y pense l’hiver ou la saison des pluies qui dure quatre mois” (Cung điện thứ hai nhỏ hơn, được xây dựng trên cái gò (élévation) hơi xa sông một chút và chỉ có một cánh nhìn ra phía sông. Chúa thường ngự ở đó vào mùa đông hay mùa mưa kéo dài đến bốn tháng) [6].

 

H.7.1. BAVH, tháng 7-9, tr.139

Pierre Poivre được chúa Võ Vương tiếp tại Phủ Dương Xuân, ông còn nhớ và ghi lại mấy chi tiết sau:

Ngài bước xuống một căn phòng nhỏ dùng để tiếp tân ở ngay cửa Phủ (chứng tỏ chỗ ông ở trên cao, cửa Phủ dưới thấp - NĐX). Ông cầm tay tôi (Poivre) và dẫn tôi đến một mô đất nằm ngoài cùng của Phủ, đối diện với một cái hồ (NĐX gạch dưới) [...] Trong lúc tôi đang ngồi trên mô đất... thì ở phía bờ hồ bên kia, một đám dân nghèo đáng thương đang rạp người cúi lạy Ngài, rồi ráng sức gào lên: bất công! bất công!”[7].

H.7.2. Phóng ảnh bản gốc BAVH, tháng 7-9, 1925, tr.139.

 

H.7.3. Ảnh Pierre Poivre

Pierre Poivre đã kể cho chúng ta biết Phủ Dương Xuân là cung điện thứ hai của chúa Nguyễn Phúc Khoát/Hoạt. Đã là cung điện thứ hai thì chung quanh Chúa còn có gia đình vợ con, cung tần mỹ nữ (James Bean), cha mẹ, văn võ đình thần, và cả bộ máy phục dịch đông đảo. Như vậy Phủ Dương Xuân là một tiểu triều đình, một cung phủ có nhiều kiến trúc trải ra trên một diện tích tương đối rộng.

Tư liệu dẫn trên cho tôi biết  Phủ Dương Xuân / Cung điện Mùa Đông có những đặc điểm sau:

- Phủ “xây dựng trên một cái gò (élévation) hơi xa sông một chút(Pierre Poivre) ;

- Trong phủ có nhiều nhà cửa dành cho Chúa và cho “cung tần mữ nữ” (James Bean).

- Có một cánh nhìn ra phía sông  Hương (Pierre Poivre).

- Địa thế chỗ cao chỗ thấp (Pierre  Poivre).

- Chỗ thấp đối diện với một cái hồ (Grand étang) (Pierre Poivre).

Vậy địa điểm nào trên gò Dương Xuân/gò ấp Bình An gần chùa Thiền Lâm có biểu hiện phương hướng, cảnh quan, dấu tích, vật thể tương ứng với những thông tin mà Pierre Poivre còn ghi lại được nêu trên?

Qua khảo sát thực tế tôi tìm được địa điểm thỏa mãn được các thông tin trên. Đặc biệt phía dưới có một cái hồ. Chính là chùa Vạn Phước với Suối Tiên và hồ Bán nguyệt dưới chân Cồn Bông Sứ. Địa điểm nầy cũng khớp với thông tin trong ĐNNTC  “phía nam gò có đàn Nam-Giao, …”.  Địa điểm xây dựng Phủ Dương Xuân  (Cung Điện Mùa Đông) thời các chúa Nguyễn là nơi tọa lạc của chùa Vạn Phước ngày nay.

Theo Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích – Cung điện Đan Dương/lăng Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm. Nay theo Pierre Poivre, ĐNNTC và thực địa cho biết Phủ Dương Xuân cũng tọa lạc gần chùa Thiền Lâm.

 

H.8. Chùa Vạn Phước đỉnh cao nhất trên gò Dương Xuân, nhìn về phía bắc là sông Lợi Nông, sông Hương, nhìn về phía nam, khe (suối Tiên) và hồ sen. Trích bản đồ của sở Xây Dựng TTH. Chú thích của NĐX

2.6. Vậy Cung điện Đan Dương/lăng Đan Dương như thế nào?

Cung điện Đan Dương đã bị hủy diệt phá sạch. Muốn tìm hiểu Cung điện Đan Dương phải quay lại từ ngày đầu Nguyễn Huệ chỉ huy quân đội Tây Sơn ra giải phóng Phú Xuân trong tay quân Trịnh năm 1786.

Tài liệu Việt Nam chưa tìm được tôi may mắn phát hiện được trong tư liệu của người Anh sau đây:

Năm 1792, Macartney được cử sang làm đại sứ của nước Anh tại Trung Quốc. Trong sứ đoàn, có John Barrow biết tiếng Trung Quốc làm quản gia. Trong chuyến du hành, vào những năm 1792-1793, sứ đoàn có ghé lại Đà Nẵng. Trong thời gian này, John Barrow khởi thảo cuốn sách A voyage to Cochinchina in the years 1792-1793 (Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà trong các năm 1792-1793). Tại trang 251 của cuốn bút ký hiếm hoi này, John Barrow cho biết: “Long-niang had scarcely set foot in his capital Hué-foo, before he took occasion to quarrel with the king of Tung-quin”

Long-niang (tức Nguyễn Huệ) hầu như chưa đặt chân tới kinh đô của mình là Huế-phủ trước khi ông ta có cơ hội để gây sự với nhà vua Bắc Hà” [8].

 

H.9.1. John Barrow

 

H.9.2. A voyage to Cochinchina in the years 1792-1793

 

H.9.3. A voyage to Cochinchina in the years 1792-1793. tr.251

 

H.9.4. Sao y trích đoạn tại trang 251 “Long Nhương Nguyễn Huệ chưa đặt chân vào Huế phủ trước khi xua quân ra miền Bắc” trong sách A voyage to Cochinchina in the years 1792-1793.

Dù đã chiếm được Đô thành Phú Xuân, nhưng Nguyễn Huệ không vào trú tất tại đó. Chỉ vì một lý do dễ hiểu là hàng ngàn quân Trịnh bị giết đang sình thối trong đó làm sao ở được.

Nguyễn Huế kéo quân ra Bắc “phù Lê diệt Trịnh”, thu được nhiều của cải vàng bạc châu báu và bà vợ trẻ Lê Ngọc Hân. Khi trở lại Phú Xuân, Nguyễn Huệ cũng không vào Đô thành Phú Xuân mà theo một lá thư viết ngày 23-7-1788, tại Phú Xuân, giáo sĩ La Bartette cho biết:

Từ khi Tân vương (Nguyễn Huệ) về Phú Xuân, ông ấy bận phòng ngự: ông đã cho xây cất một bức tường cao 20 pi-ê (6,48m) chung quanh Dinh ông. Hình như ông gấp lắm, ông bắt mọi người làm việc sáng đêm không nghỉ. Người ta nói rằng ông cho đặt súng đại bác chung quanh. Người ta còn nói, ông sắp xây tường hai bên sông chảy qua Phú Xuân và đặt súng đại bác ở đó. Người ta tin rằng ông làm như vậy vì ông sợ thủy quân (địch). Chính tại thành này, ông đã cất số vàng bạc ông đã kiếm được ở Bắc Kỳ[9].

Theo thông tin của La Bartette nêu trên chứng tỏ trước khi ra Bắc Nguyễn Huệ đã sử dụng một cơ sở quan trong của các chúa Nguyễn ở Phú Xuân để làm dinh cho ông. Cái dinh nầy ở xa sông Hương để có thể phòng ngự tốt đối với các lực lương thủy quân của đối phương. Cái dinh nầy là chỗ ở chính của Nguyễn Huệ và gia đình ông.

Ngày 22-12–1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra Bắc giải phóng Thăng Long trong tay 29 vạn quân Thanh. Sau ngày đại thắng, vua Quang Trung về  lại Phú Xuân, mời người tổ chức triều chính. Một trong những người được mời là Bùi Dương Lịch (1757-1828) - người Hà Tĩnh cử làm Tu thư ở viện Sùng Chính. Trong cuốn biên niên sử Lê Quý Dật Sử, Bùi Dương Lịch cho biết:  “Tháng 4 [Kỷ Dậu, 1789] Nguyễn Huệ thắng trận trở về, bèn định đô ở Phú Xuân, đắp thêm thành quách, mở rộng cung điện….[10].

 

H.10. Bùi Dương Lịch, Lê Quý Dật Sử, bd của Phạm Văn Thắm, Nxb KHXH, HN 1987, tr.90.

Từ đó dinh riêng của Nguyễn Huệ trở thành Cung điện trung tâm của Triều Quang Trung. Tất cả những chủ trương, chính sách về quân sự, ngoại giao, kinh tế, giáo dục v.v. của thời đại Quang Trung đều được bàn thảo, quyết định, xuất phát từ đây. Và cũng chính ở đây vua Quang Trung trong một thời gian ngắn phải lo nghĩ biết bao việc khó khăn: Bà chính hậu ông rất sủng ái qua đời, bào huynh Nguyễn Nhạc của ông ở Quy Nhơn lăm le ra Phú Xuân cướp ngôi của Ông, việc chuẩn bị đại quân đánh nhà Thanh lấy lại đất Lưỡng Quãng chưa xong, trong miền Nam – Nguyễn Vương/sau nầy là vua Gia Long với sự trợ giúp của lính đánh thuê phương Tây đã đốt sạch lực lương thủy quân Tây Sơn ở Quang Ngãi Quy Nhơn, dân chúng hoang mang kinh sợ như gặp phải thần binh, dù Ông đã gởi hịch dựng lại tinh thần cho dân chúng nhưng chưa có kết quả.v.v. Do tình hình căng thẳng như vậy nên vua Quang Trung đã ngã bệnh và qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1792 (39 tuổi). Để giữ bí mật triều Quang Toản đã táng vua ngay trong Cung  điện của ông.

Sách Đại Nam Liệt Truyện của triều Nguyễn cho biết:

Ngày 29 tháng 9 vua Quang-Trung Nguyễn Huệ băng [11], ở ngôi được năm năm, tuổi mới bốn mươi. Thái-tử Quang Toản nối ngôi, tháng mười an táng vua Quang-Trung ở phía nam sông Hương[12].

 

H.11. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập. Q.30 “Ngụy Tây”, tr. 43a, dòng thứ nhất (phải) viết: “Quang Toản tự ngụy vị, thập nguyệt, táng vu Hương Giang chi nam” Dịch: Quang Toản nối ngôi, tháng 10 an táng (vua Quang Trung) ở phía nam sông Hương”[13]

Thông tin về lăng mộ vua Quang Trung trong Liệt Truyện ở phía nam sông Hương. Theo Phan Huy Ích và thực địa chùa Thiền Lâm cũng tọa lạc ở Nam sông Hương. Như vậy lăng mộ vua Quang Trung ở gần chùa Thiền Lâm qua thơ văn Pham Huy Ích và qua Đại Nam Liệt Truyên của triều Nguyễn khớp nhau. Và, qua Ngô Thì Nhậm như đã dẫn trên lăng mộ vua Quang Trung ở trong cung điện mang tên Đan Dương và lăng vua Quang Trung cũng được mang tên lăng Đan Dương.

Chùa Thiền Lâm ở Phủ Dương Xuân, nói cách khác Phủ Dương Xuân ở gần chùa Thiền Lâm và Cung điện Đan Dương/lăng Đan Dương cũng ở gần chùa Thiền Lâm. Vậy Phủ Dương Xuân và Cung điện Đan Dương/lăng Đan Dương có quan hệ gì với nhau không?

3. Giải mã những hiện tượng lạ

Chùa Vạn Phước tọa lạc trên gò ấp Bình An (gò Dương Xuân thời các chúa Nguyễn). Ngày xưa gọi vùng đất nầy là Long Sơn. Vùng đất nầy đã bị cấm suốt thế kỷ XIX trở nên hoang hóa. Cái sườn gò trước chùa Vạn Phước chạy xuống suối Tiên phía trước có tên dân gian là cồn Bông Sứ. Trên Cồn có vài gốc bông sứ cổ thụ. Trong một bài thơ  (làm năm 1843) viết về Suối Tiên trong vùng nầy Tùng Thiện Vương gọi Cồn Bông Sứ ấp Bình An là “loạn sơn”.  Trong vùng nầy theo dân chúng cho biết có nhiều mã hoang gọi là “mã loạn”, nhiều giếng bỏ hoang gọi là “giếng loạn”. Tôi đã đi khảo sát các “giếng loạn” nầy. Có một cái giếng được ông Phó bảng nguyên làm Phủ Doãn Thừa Thiên tên là Nguyễn Đình Hiến viết một văn bia dài mấy ngàn chữ về một “giếng loạn”[14] Văn bia có câu: “Giếng nầy ai đào? Đào từ khi nào? Vì sao bỏ hoang?” Văn bia đặt ra ba vấn đề. Căn cứ vào thực tế có thể trả lời vấn đề thứ nhất: Giếng lớn, sâu, hiện hữu trong một vùng có nhiều giếng chứng tỏ giếng từng phục vụ cho một lực lượng đông đảo quan quân chứ không thể của dân. Đào từ khi nào ? Phải chờ nghiên cứu. Vì sao bỏ hoang?  Vì lực lượng quan quân đông đảo ấy không dùng nữa nhưng vì phong tục cấm lấp giếng (địa phương học) nên phải bỏ hoang. Lực lượng quan quân đông đảo đó là ai?

Với sự hướng dẫn của người địa phương (ông Nguyễn Hữu Oánh –cháu bốn đời của người khai canh vùng đất nầy từ đầu thế kỷ XX) tôi bỏ ra hàng chục năm để giải mã các hiện tượng lạ ở đây:

Giữa vùng rừng hoang lại có nhiều gốc sử cổ thụ và cái cồn có bông Sứ cổ thụ ấy được mang tên Cồn Bông Sứ. Theo thảo mộc học ở Thừa Thiên Huế, bông sứ là một loại hoa ngoại nhập, chứ không phải của rừng núi tự nhiên ở VN. Người ta trồng bông Sứ ở những nơi lăng mộ, nơi thờ cúng. Điều đó chứng tỏ Cồn Bông Sứ trước đây từng thuộc một vùng có lăng mộ, nơi thờ cúng.

Vùng đất tọa lạc chùa Vạn Phước ngày nay thời các chúa Nguyễn có tên Long Sơn thuộc xã Dương Xuân. Đến đầu thế kỷ XIX đổi thành ấp Bình An. Nghiên cứu kỹ về chủ trương “tận pháp trừng trị” của nhà Nguyễn đối với Phong trào Tây Sơn ta thấy những địa danh nổi tiếng liên quan đến Phong trào Tây Sơn, sau khi đã được nhà Nguyễn dẹp yên đều đổi lại thành một địa danh có một chữ BÌNH hoặc một chữ AN. Ví dụ Ấp Tây Sơn – nơi xuất phát Phong trào Tây Sơn được đổi lại thành ấp AN TÂY, Phủ Quy Nhơn đổi lại Dinh BÌNH ĐỊNH rồi thành BÌNH ĐỊNH. (Lĩnh vực ngôn ngữ học). Đất Long Sơn phải chăng có dính dáng đến Nguyễn Huệ Quang Trung nên sau khi lấy lại được Phú Xuân nhà Nguyễn đã đổi lại thành ấp BÌNH AN?

Vấn đề làm cho tôi mất nhiều thời gian nhất là tại ấp Bình An nầy có quá nhiều chữ “LOẠN”. “Tự kinh binh loạn” (ĐNNTC), “Loạn sơn” (亂山深處一溪 橫 (Loạn sơn thâm sứ nhất khê hoành) Thơ Tùng Thiện Vương-văn học cổ), “Chiều chiều mây kéo về Kinh, ếch kêu giếng loạn thảm tình đôi ta” (Văn học dân gian), “Giếng loạn” (thực tế địa phương), “Mã loạn” (thực tế địa phương).

Từ điển Tiếng Việt giải thích chữ LOẠN: “Sự chống đối bằng bạo lực nhằm làm mất trật tự và an ninh xã hội không theo một trật tự hoặc một nền nếp bình thường nào cả.” Như vậy trên đất Bình An từng xảy ra một cuộc chống đối bằng bạo lực, một cuộc “loạn” khốc liệt. Theo lô-gic thì Cung điện Đan Dương của vua Quang Trung ở gần chùa Thiền Lâm và không thể không liên quan đến Phủ Dương Xuân trên đất Long Sơn đã đổi tên thành Bình An cũng gần chùa Thiền Lâm: Cuộc loạn đó là tên gọi của nhà Nguyễn đặt cho Phong trào Tây Sơn ở Huế mà người đứng đầu là vua Quang Trung. Nhận định như vậy có người sẽ bình luận là suy diễn.

Không có tài liệu lịch sử nào giải thích ý nghĩa cuộc loạn ấy. May sao Nguyễn [Văn] Siêu - một người bạn của Tùng Thiện Vương, tác giả Phương Đình Dư Địa Chí cho biết nội dung cuộc loạn đó là:

Biến loạn năm Bính Ngọ (1786), Tây Sơn chiếm giữ (năm Giáp Ngọ (1775) quân Trịnh xâm lấn xe Thừa Dư ngự về phía nam, đến năm Bính Ngọ (1786), Tây Sơn Nguyễn Huệ lại chiếm giữ”. “Loạn” tức là “Biến loạn” năm Bính Ngọ (1786), tức lúc Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn đem quân Tây Sơn ra giải phóng Phú Xuân trong tay ba vạn quân Trịnh và tồn tại cho đến năm 1801.

 

H.12. “Biến loạn năm Bính Ngọ, Tây Sơn chiếm giữ (năm Giáp Ngọ quân Trịnh xâm lấn xe Thừa Dư ngự về phía nam đến năm Bính Ngọ, Tây Sơn Nguyễn Huệ lại chiếm giữ”[15].

Như vậy các sự kiện “Biến loạn” bắt đầu từ năm Bính Ngọ (1786) –tức các biểu hiện của  Nguyễn Huệ Quang Trung chồng lên Phủ Dương Xuân. Nói cách khác Phủ Dương Xuân là tiền thân của Cung điện Đan Dương thời Nguyễn Huệ Quang Trung. Đầu triều Nguyễn Cung điện Đan Dương bao gồm lăng mộ vua Quang Trung bị hủy diệt xóa hết dấu tích, Phủ Dương Xuân tất nhiên phải mất tích đúng như ĐNNTC viết “Từ sau khi bị binh loạn đến nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào”.

Nguyễn Vương hủy diệt Cung điện và lăng Đan Dương như thế nào?

Sách Đại Nam Thực Lục Chính biên của Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đệ nhất kỷ, Q.XV, tr.26a cho biết :

Tháng 11 Tân dậu (1801), “hủy Tây Sơn tặc Nguyễn Văn Huệ mộ, trác quan lục thi kiêu kỳ thủ vu thị” Dịch: phá huỷ mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng (hòm), phơi thây, bêu đầu ở chợ[16].

 

H.13. Quốc sử quán Triều Nguyễn, ĐNTLCB, Đệ nhất kỷ, Q.XV, tr. 26a.

Lăng mộ của Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) đã bị hủy. Nhưng lăng mộ đó ở đâu thì không thấy Thực Lục thông tin. Phải đợi đến hơn 50 năm sau (1852), Nguyễn Trọng Hợp và các sử thần ngồi ở Quốc Sử quán trong Kinh thành viết bộ Đại Nam chính biên liệt truyện (sơ tập), trong Quyển XXX “Ngụy Tây”, khi viết về tiểu sử vua Quang Trung mới hé cho biết lăng mộ vua Quang Trung đã được “táng vu Hương Giang chi nam” ( 于香江之南) – (táng ở bờ nam sông Hương). (Xem H.14).

 

H.14.1. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập. Q.30 “Ngụy Tây”, tr. 43a, dòng thứ nhất (phải) viết: “Quang Toản tự ngụy vị, thập nguyệt, táng vu Hương Giang chi nam” Dịch: Quang Toản nối ngôi, tháng 10 an táng (vua Quang Trung) ở phía nam sông Hương” [17].

Quốc Sử Quán Triều Nguyễn dành trọn Q.30 trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Sơ tập, viết về Phong trào Tây Sơn. Sách đã ghi lại việc các lãnh tụ Phong trào Tây Sơn đã bị trả thù như thế nào. Cuối Q.30, sách tóm lược những việc vua Thế Tổ (Gia Long) đã “tận pháp trừng trị” nhà Tây Sơn như thế nào. Tr.55b, Q.30, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện viết:          

Thị đông xa giá hoàn Kinh, cáo miếu Hiến Phù, tận pháp trừng trị, quật phá Nhạc Huệ mộ, đào khí hài cốt, u kỳ đầu vu ngục thất, cải Tây Sơn ấp viết An Tây ấp” Dịch : Mùa đông ấy (1801) xa giá [của Thế tổ] trở về Kinh (Đô Phú Xuân) , báo cáo ở Tông miếu và dâng hiến tù binh, tội phạm Tây Sơn đều bị giết để trừng trị, đào phá mộ (của Nguyễn) Nhạc, (Nguyễn) Huệ, giã nát và đổ bỏ, nhốt sọ đầu vào nhà ngục, đổi tên ấp Tây Sơn gọi là ấp An Tây[18]

 

H.14.2. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, Q.30, tr.55b “đổi tên ấp Tây Sơn gọi là ấp An Tây”.

Ta có thể tưởng tượng cảnh đập phá đó kinh khủng như thế nào qua lời lên án của ông Barisy - một nhân chứng có mặt trong đoàn quân của Nguyễn Vương khi trở lại Phú Xuân, sau đây:

Nguyễn Vương đã để cho cướp phá tất cả dinh thự của các tướng địch (Tây Sơn) và tôi tức giận các binh lính đã đập vỡ và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tay họ; chắc chắn có những toà nhà tuy xây cất theo lối Trung Hoa nhưng nếu ở Paris thì có lẽ được coi là những lâu đài tráng lệ, nhiều vườn đẹp trồng nhiều dị thảo và nhiều bình choé Nhật Bản[19].

Trên khu đất từng là nơi tọa lạc Phủ Dương Xuân ghi dấu nhiều biểu hiện của “loạn” (tức liên quan đến Tây Sơn/Nguyễn Huệ/Quang Trung) tức Cung điện Đan Dương/lăng Đan Dương đã bị triệt hạ. Nói cách khác Cung điện Đan Dương bị triệt hạ là hậu thân của Phủ Dương Xuân. Điều đó có nghĩa là vua Quang Trung đã sử dụng Phủ Dương Xuân xây dựng tiếp làm thành Cung điện Đan Dương của thời đại Quang Trung. Năm 1792 vua Quang Trung qua đời để giữ bí mật triều đình Quang Toản táng vua ngay trong Cung điện Đan Dương. Cung điện Đan Dương trở thành Đan Dương lăng/Đan Lăng. Mùa hè năm 1801, Nguyễn Vương/sau nầy là vua Gia Long đã phá hủy chôn sâu hoàn toàn khu lăng Đan Dương, cấm dân không được lui tới nơi nầy. Vì thế khi viết Đại Nam Nhất Thống Chí nhà Nguyễn buột lòng phải viết là “Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ” là như vậy.

Nhờ thông tin liên ngành mà tôi đã đến được địa điểm từng tọa lạc Phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn – tiền thân của Cung điện Đan Dương thời Quang Trung ở Huế. Kết quả nầy đã được Hội thảo Khoa học Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn ở Huế vào ngày 30-10-2015 xác nhận đúng. Cuộc khai quật hồi cuối năm 2016 đã tìm thấy nhiều hiện vật cổ trong 5 hố chứng tỏ đã có nhiều kiến trúc, hiện vật sinh hoạt của đời sống thượng lưu trong khu vực chùa Thiền Lâm-chùa Vạn Phước. Xin trích dẫn một số hình ảnh các cổ vật đã tìm thấy tại địa điểm được chứng minh là Phủ Dương Xuân-tiền thân của cung điện Đan Dương trên gò Dương Xuân. Các cổ vật được cung cấp từ hai nguồn sau đây:

  3.1. Nguồn dân gian:

  3.1.1. Chùa Thiền Lâm

 

H.15. Chùa Thiền Lâm mang số 3 trên bản đồ Hàm Long Sơn Chí nằm ở trung độ con đường từ bờ sông Lợi Nông lên đàn Nam Giao thuộc xã Phú Xuân (tức thuộc xã Dương Xuân cũ) chứ không phải xã An Cựu.

 

H.16. Tâm Hằng NĐX phỏng vấn Tỳ-kheo Thích Chơn Trí – trú trì chùa Thiền Lâm

 

H.17. Gạch đá vỡ không dùng được. (Ảnh của nhà báo Thanh Tùng 12-1988)

 

H.18. Một viên đá táng cổ trên đống giải hạ sau lưng nhà trai chùa Thiền Lâm (9-2006).

3.1.2. Nhà ông Nguyễn Hữu Oánh.

 

H.19. Hỏi chuyện ông Nguyễn Hữu Oánh – một nhân chứng ở địa phương

 

H.20. Tấm đá lạ, gia đình ông Nguyễn Hữu Oánh tặng chùa Vạn Phước (1938).

 

H.21. Sau đó đã chuyển ra lát sân phía sau chùa. Số đá lát nầy do gia đình ông Nguyễn Hữu Oánh tặng

3.1.3. Đường lên chùa Vạn Phước

 

H.22. Viên đá (bên trái) lỗ chân cột khoét hai bậc, đường kính bậc trên lớn 27 cm; viên đá bên phải đường kính lỗ chân cột 26, 5 cm. Ảnh NĐX

 

H.23. Hai viên đá táng cột phát hiện tại hố sâu 3 m chỗ ngã ba rẽ vào chùa Vạn Phước.

3.1.4. Chùa Vạn Phước

 

H.24. Chùa Vạn Phước đỉnh cao nhất trên gò Dương Xuân, nhìn về phía bắc là sông Lợi Nông, sông Hương, nhìn về phía nam, khe (suối Tiên) và hồ sen. Trích bản đồ của sở Xây Dựng TTH. Chú thích của NĐX

 

H.25. Đá táng cột dùng làm chân ghế dài trước nhà ngang sau chùa Vạn Phước.

3.1.5. Lăng mộ bà thân mẫu cụ Phạm Liệu.

 

H.26. NNC Nguyễn Đắc Xuân cùng với anh Nguyễn Hải (cháu gọi cụ Phạm Liệu bằng cố ngoại)

 

H.27. Một trong hai chóp trụ đá được tận dụng trang trí trước lăng bà thân mẫu Thượng thư Phạm Liệu, nhưng kích cỡ không bằng nhau.

 

H.28. Hai viên đá bậc cấp và táng cột đặc biệt phát hiện trước khu mộ thân mẫu cụ Phạm Liệu bị người giữ lăng dịch chuyển ra phía  sau, lỗ táng cột bị trám phẳng mất dấu gốc.

 

H.29. Một viên đá được Thượng thư Phạm Liệu qui tập về để cạnh lăng mộ thân mẫu giống như một chiếc ghế.

3.2. Nguồn khảo cổ học.

3.2.1. Hố sau chùa Vạn Phước

 

H.30. Nhiều mảnh vỡ sành sứ, có mảnh mang niên hiệu là Khang Hy được lấy lên từ hố thứ 1 (16GDX.H1)

3.2.2. Hố trước chùa Vạn Phước

 

H.31. Chuôi kiếm được tìm thấy tại hố thứ 2 trước mặt chùa Vạn Phước

 

H.32. Một đĩa có hình chữ NHẬT còn nguyên vẹn chôn sâu dưới đất lấy từ hố thứ 2 (16GDX.H2)

3.2.3. Hố khai quật nhà ông Nguyễn Hữu Oánh

 

H.33. PGS.TS Bùi Văn Liêm hỏi chuyện ông Nguyễn Hữu Oánh

 

H.34. Một lớp đá trộn lẫn với đất sét ở hố thứ 3 (16GDX.H3) trong khuôn viên sân nhà ông Nguyễn Hữu Oánh.

3.2.4. Hố khai quật chùa Thiền Lâm

 

H.35. Cái om đất được phát hiện ở hố thứ 4 (16GDX.H4).

3.2.5. Hố nhà ông Lê Trung Hiếu và nhà bà Lê Thị Rô.

 

H.36. Chuyên gia khảo cổ Nguyễn Đăng Cường đang vẽ lại chi tiết một mảng nền đá được tạo bởi vôi vữa tại hố thứ 5 (16GDX.H5).

 

H.37. Lớp đất có đá và vôi vữa ở hố thứ 6 trước nhà nhà ông Lê Trung Hiếu (16GDX.H6).

4. Kết luận

Tôi đến được địa chỉ di tích đặc biệt của hai triều đại các chúa Nguyễn và Nguyễn Huệ Quang Trung là nhờ tôi đã vận dụng được thông tin của liên ngành khoa học lịch sử, địa lý lịch sử, văn học cổ và văn học dân gian, thông tin từ những nhân vật ngoại quốc từng đến Huế trong thời gian lịch sử của đề tài và thông tin của thực địa (con người và Dấu tích cổ). Thông tin liên ngành nầy không phải tìm đâu xa mà nó nằm ngay trong tủ sách Huế học của tôi và khu vực thực địa ấp Bình An P. Trường An thân thiết của TP Huế yêu thương của tôi. Khám phá của tôi sẽ giúp cho Thành phố Huế phục dựng lại Cung điện Đan Dương và lăng Đan Dương góp phần xây dựng khu di tích thời đại Quang Trung bên cạnh các di tích thời đại Nguyễn đã hiện hữu nổi tiếng thế giới lâu nay. Khu di tích nầy ít ra có những ý nghĩa đặc biệt:

- Khu tưởng niệm vị anh hùng dân tộc vĩ đại có chiến công chống ngoại xâm hiển hách không thua gì các bậc anh hùng dân tộc vĩ đại của các nước Á, Âu;

- Một khu di tích có hai triều đại chồng lên nhau. Triều đại các chúa Nguyễn (Phủ Dương Xuân) và triều đại Quang Trung (Cung điện Đan Dương) nơi đây sẽ hóa giải sự mâu thuẫn đẫm máu giữa hai triều đại để hòa hợp, hòa giải lịch sử giúp cho sự hòa hợp hòa giải của dân tộc hiện nay;

- Một khu du lịch hấp dẫn.

Và cuối cùng: Phổ biến Phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa học chưa được vận dụng rộng rãi ở VN.

Hà Nội, 26 tháng 11 năm 2017

Nguyễn Đắc Xuân[*]

 



[1] QSQ triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, Thừa Thiên Phủ, Tập Thượng, Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ QGGD, 1961, tr.56.

[2] Bản thủ sao những trang “Nhật kí du hành gặp vua xứ Đàng Trong” (Journey to meet the King of Cochinchina) được trích lục từ thủ bút của James Bean trong bộ “Sưu tập BEAN” (Bean Collection) hiện lưu trữ tại “Văn phòng đại diện thương mại và thư viện Anh tại Ấn Độ” (India Office and Library) mang ký hiệu MSS. EUR. E. 366. Đây là những trang tư liệu chưa hề được công bố nói về cuộc gặp gỡ giữa “vua xứ Đàng Trong” – bấy giờ là Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát – với các nhân viên Công ty Đông Ấn thuộc Anh, tại Kinh đô Phú Xuân. (Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề Sử học, NXB Văn hóa - Thông tin, 2008, tr.146).

[3]  Nguyễn Sinh Duy, Quảng Nam và những vấn đề Sử học, NXB Văn hóa - Thông tin, 2008, tr.149-150

[4] James Bean Nhật kí du hành gặp vua xứ Đàng Trong, do Nguyễn Sinh Duy dịch, trích “Quảng Nam và những vấn đề sử học”, NXB Văn hóa Thông tin, năm 2005. tr155 - 157.

[5] L.Cadière, Les Quartier des Arènes, II- Souvenirs des Nguyễn, BAVH, năm thứ 12, số 3, Juillet-Septembre 1925, chú thích (1) cuối tr.138

[6] Description historique de la Cochinchine  de Jean Koffler, bản dịch can P.Barbier, Revue Indochinoise , tập XV và XVI,1911  

[7] BAVH,tháng 7-9, 1925,  tr.139

[8] Nguyễn Thừa Hỷ (dịch), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792-1793), Nxb Thế Giới HN.2008, tr.26.

[9] Trích lại của Đặng Phương Nghi, Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, T/s Sử  Địa, số  9-10, Đặc khảo về Quang Trung, số đặc biệt Xuân Mậu Thân/1968, tr.235.

[10] Bùi Dương Lịch, Lê Quý Dật Sử, bd của Phạm Văn Thắm, Tài liệu dịch thuật của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb KHXH, HN 1987, tr.90.

[11] Chậm hai tháng so với sự thật lịch sử. NĐX

[12] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Chính biên liệt truyện Nhà Tây Sơn, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc trách Văn hóa, SG 1970, tr.171-175.

[13] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Nhà Tây Sơn, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc tránh Văn Hóa, Sài Gòn 1970,tr.174-175.

[14] Giếng cổ hiện nay vẫn còn trong chùa Diệu Dức. Tấm bia mang tên Cổ kính trung viên thuyết còn giữ tại Bảo tàng Văn hóa Huế.

[15] Trích dẫn H.12, sách Phương Đình Dư Địa Chí của Nguyễn [Văn] Siêu do Nxb Tự Do ở Sài Gòn xuất bản trước năm 1975, nội dung trích dẫn này cũng có thể gặp lại Phương Đình Dư Địa Chí do Nxb Văn Hóa Thông Tin, HN 2—1. tại tr.201-202.

[16] Đại Nam Thực lục Chính Biên, t.I, Nxb Giáo Dục, HN 2002, tr. 473.

[17] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Nhà Tây Sơn, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc tránh Văn Hóa, Sài Gòn 1970,tr.174-175.

[18] Như [17], tr.224-225

[19] Nguyễn Ngọc Cư, Những ngày tàn của Tây-Sơn dưới mắt các giáo-sĩ Tây Phương, Tập san Sử Địa số 21, tr.180

[*]Nguyễn Đắc Xuân, Trưởng nhóm Nghiên cứu Đan Dương, 3/7 Nguyễn Công Trứ, Huế. Đt 0914 20 39 44, e-mail: gacnhieuloc@gmail.com

 

Các bài viết khác:
Vietravel
Khách sạn Midtown
Phú Đạt Gia