PHỦ DƯƠNG XUÂN

Lời dẫn.- Đoạn tư liệu dưới đây trích từ bài Le Quartier Des Arènes của L.Cadière (BAVH số Tháng 7 - 9 / 1925 ( tr.136 -144) do thầy Lê Khắc Phò (Đại học Sư phạm Huế) chuyển ngữ. Nhiều nhà nghiên cứu đã dựa vào đoạn trích nầy và cho rằng Cadière đã chứng minh Phủ Dương Xuân nằm trên khu Ruộng Phủ trước đình Xuân Giang thuộc Phường Đúc ngày nay. Nhưng họ không ngờ cuối cùng tất cả những thông tin Cadière đã trích dẫn không đủ cơ sở khoa học để ông có thể tin Phủ Dương Xuân trên khu Ruộng Phủ. Kết thúc bài nghiên cứu ông đã hạ bút viết "Vậy thì chúng ta hãy rời bỏ Phủ Dương Xuân này, và sẽ hẹn trở lại một khi tìm được một tư liệu nào mới" (Quittons donc ce palais de Dương Xuân, quitte à y revenir si nous trouvions de nouveaux documents) .Mãi đến 30 năm sau ông qua đời (1955) ông vẫn "chưa" tìm được một tư liệu nào mới để ông trở lại cả. NĐX.

Một số giáo sĩ và khách tham quan Huế vào thời gian này đã kể cho chúng tôi về Phủ Dương Xuân.

Ông J.Koffler, viết trong cuốn Sử lược Nam kỳ, cho rằng: “ngoài cung điện chính ra, vẫn còn có thêm 3 điện (?) khác. Điện thứ hai, nơi ở của nhà vua dịp mùa đông, được xây trên bờ đối diện của sông…”

Giáo sĩ Favre, thư ký cho đoàn truyền giáo, lại không nói gì về điều trên. Nhưng, mãi mười năm sau, Pierre Poivre đã có nhiều dịp thấy được cung điện này, trong chuyến đi lần thứ hai của ông tại Huế và trú ngụ tại nhà ngài Lefebre, cách điện Dương Xuân khoảng một cây số, và cũng đúng vào dịp Võ Vương đến ngụ tại điện. Trong chuyến đi này, Poivre gọi điện là “điện nhỏ của vua Thợ Đúc”, điều này một lần nữa khả dĩ xác định được vị trí mà ông đã ở.

Ngoài ra, Poivre còn gọi Phủ Dương Xuân là “phủ trên”. Và giải thích theo lối nghĩ của người dân An Nam, theo cùng một từ trên, theo cách viết và phát âm của thời kỳ này. Lối đặt tên trên ám chỉ rằng vị trí của Phủ Dương Xuân nằm phía thượng nguồn của sông nếu chiếu theo điện chính là Phú Xuân. Cuối cùng, Poivre sử dụng lại một từ của ông Koffler “Cung điện mùa đông”. Do có nhiều kẻ muốn yết kiến nhà vua tại Phủ, theo lời tường thuật của ngài tôi có dùng lại một số từ ngữ vay mượn, điều này cho phép bổ sung thêm một số chi tiết thú vị về địa điểm của Phủ Dương Xuân và biết được vùng đất trơ trụi mà chúng tôi hiện nghiên cứu có được thêm một chất liệu sống động hơn.

Ngày 25-11-1749, “Chúa vua rời khỏi Phủ chính, gọi là Phủ Kinh và đi đến Phủ trên. Đến đây, binh lính bắn ba phát đại bác, theo cách nghĩ của người dân ở đây, nhằm xua đi những ý nghĩ tà đạo. Những người dân nghèo, khi nói về chuyện bắn đại bác này, đều lộ vẻ mê tín với đầy những suy nghĩ sai lầm đến độ buồn cười. Phủ Mùa đông được xây dựng cùng theo quy cách của Phủ chính, bốn bề được súng đại bác bao quanh, nằm trên triền bờ đông. Hàng năm, vào những tháng cuối cùng, Chúa thường ghé lại đây, vì rằng vào mùa này, đất ở đây thường trủng và thường xuyên bị ngập lụt, nhà vua lại tìm thú vui ở trò câu cá và xem thuyền chèo”.

Từ ngày 29-11, Poivre tìm cách để được yết kiến Võ Vương, dù không phải để mưu tìm một công việc gì. Thời gian này, Poivre đang ngụ tại một khu phố người Tàu, tức hiện nay là làng Minh Hương, hạ lưu sông Bao Vinh, cách điện Dương Xuân “chừng hai dặm”. Từ nhiều tuần nay, mưa to cùng với lũ lụt, mọi người đều cho rằng “hiếm có năm nào mưa lại to như vậy”.

“Tôi (P.Poivre) đến Phủ thượng, để xin yết kiến Chúa. Trước tiên tôi đến nhà viên Giám mục địa phận để thỉnh nguyện điều này. Đợi một quảng khá lâu trước cửa, gia nhân bảo tôi rằng ông chủ bị ốm và không thể gặp được ai cả. Vài phút sau, tôi đi đến cửa Phủ, tìm gặp một vài viên sĩ quan quen biết có thể dẫn tôi vào được. Tôi gặp được một viên chỉ huy, ông này hứa với tôi sẽ giúp, nhưng rồi sau đó báo với người thông ngôn của tôi rằng hôm nay không thể gặp Chúa được, rằng người ngoại quốc không được phép vào trong Phủ, như vậy tôi phải chờ đến khi nào nhà vua quay lại Phủ chính. Điều này chỉ thực hiện sớm lắm là hai tháng sau.

“Riêng tôi thì có nhiều lý do để ngờ vực người thông ngôn này khi thấy hắn nói to nhỏ với viên chỉ huy bảo vệ, tôi cho rằng chính hắn muốn cản trở dự định tôi.

Dù vậy, tôi vẫn nhất định chờ đợi bằng cách đi dạo quanh trước cửa Phủ và tìm cách gặp một vài người để trình bày chuyện khó khăn của tôi. Cuối cùng, không gặp một người quen nào, tôi quyết định quay lại nhà viên Giám mục địa phận, nhờ đám gia nhân nhắn lại rằng, do Chúa bị ốm, tôi sẽ không trình bày với ngài một công việc nào cả, mà đơn giản là đến thăm ngài với một thầy thuốc đi cùng. Rốt cuộc tôi được mời vào, đúng lúc Chúa đang đi dạo. Để tiếp tôi, ngài bước xuống một căn phòng nhỏ dùng để yết kiến ở ngay cửa của Phủ. Vẻ thân mật, rất bình thường…

“Nhà vua nhận tờ thỉnh cầu của tôi với đầy vẻ thiện chí, cầm lấy tay tôi và dẫn đến một mô đất nằm ngoài cùng của điện, đối diện với một cái ao, nơi ngài câu cá. Ngài ngồi trên một chiếc chiếu và thong thả đọc tờ đơn…

“… Trong lúc tôi đang ngồi ở đấy với nhà vua, thì ở phía bờ ao đối diện, một đám đông dân nghèo đang quỳ sụp lạy nhà vua và cố gào lên: bất công, bất công. Để được nhà vua chú ý nhiều hơn, trên đó họ khắc những lời ta thán. Nhà vua liền sai viên chỉ huy bảo vệ đến nhận lời thỉnh cầu của họ. Họ là những dân cày nghèo bị một viên quan lớn bóc lột, và để đạt được thỉnh nguyện họ đã hành động như thế, theo một lối đang được dùng ở Nam kỳ bấy giờ…

Phải chăng khu vực này không còn hoang vắng nữa? Chúng tôi (L.Cadière) thấy ao đã bị lắp đầy một nửa, nằm ở phía đầu của Phủ, chính xác hơn là phía sau hoặc phía trước, theo hướng về phía Phủ. Khoảnh đất nằm trên ao, nơi Chúa đang ngồi, hẵn là mô đất mà hiện nay là một ngôi chùa, hoặc một trong những nền nhà bao quanh bờ ao. Chính ở khu vực ao này, vào thời kỳ ấy hẵn sâu hơn so với lúc này, là nơi nhà vua thường thả lưới câu cá. Lũ lụt hàng năm, theo lời kể của Poivre, lại làm đầy nước lại và kéo thêm cá vào ao. Và, phía bờ ao bên kia, người người dân cày nghèo khó đang quỳ sụp lạy, sung sướng được gặp Ngài, bất kể đám lính canh, bất kể tên Cao Miên tham lam và hung tợn, người mà hẵn Poivre đã hết sức buồn phiền.

Điều mà chúng tôi (L.Cadière) cần biết thêm trong đoạn tường thuật này, là ngoài điện Trường Lạc và Hiên Duyệt Võ, Cung điện Mùa đông của Võ Vương gồm nhiều ngôi nhà khác nhau, thêm một căn phòng yết kiến, nằm sát ngay cửa, nơi Poivre đã vào. Thêm nữa, không xa ngôi phủ là nhà ở của lão người Cao Miên và nhà của một số quan lại phục dịch trong Phủ.

Do công việc của Poivre vẫn còn kéo dài, ông đã cố gặp thêm Võ Vương thêm một lần nữa vào ngày 6-12 cùng năm 1749. “Trời vẫn không ngớt mưa, cái rét đã thấy rõ. Tôi buộc phải chạy giữa cơn hồng thủy ấy đến Phủ chính để kết thúc một số việc. Đầu tiên tôi đến nhà Ông Tả... Sau đó nhà tên Cao Miên, để xem liệu tôi có được gặp Võ Vương không. Hắn nói tôi rằng hiện Chúa đang ở trong cùng những người vợ và không tiếp ai cả… Cuối cùng, tôi quay lại nhà, suốt ngày không ăn uống gì và rất bực vì chuyến đi hôm nay”.

Do quá bực dọc về chuyến đi ấy, và thêm nhiều chuyện khác, Poivre quyết định quay về Tourane. Nhưng đến ngày 25-12, ông trở lại Huế, và ngày 26, ông cố tìm gặp được Chúa . “Từ nhà của lão Cao Miên, tôi đi đến Phủ để xin đươc yết kiến, đồng thời cũng xem liệu Chúa đã chuyển chổ ở chưa. Khi tên Cao Miên biết rằng tôi muốn nói chuyện với Chúa, hắn sợ tôi sẽ tự dâng Chúa lời thỉnh cầu của tôi và, do đó, hắn sẽ mất 2.500 quan, số tiền tôi hứa cho hắn. Hắn vội chạy đến Phủ, và đã tìm cách ngăn không cho tôi vào yết kiến Chúa”.

Chỉ đến ngày 27-12, Poivre mới gặp được Võ Vương “Tôi đã tìm cách thu phục viên chỉ huy bảo vệ để được vào Phủ. Tôi mời hắn đến dùng cơm tối, tặng hắn một số quà, rốt cuộc hắn hứa tìm cách giúp. Khi tôi xuất hiện ở cửa Phủ, hắn đến báo ngay với Chúa mà không chờ ý kiến của lão người Cao Miên. Nửa giờ sau, Chúa đến cửa, ngài không bước ra ngoài, chỉ khẽ nhấc đầu ra để xem tôi ở đâu. Tôi tiến lại gần...”

Lần tiếp xúc này hoàn toàn diễn ra ngay trước cửa Phủ. Poivre không ngớt tán tụng về lòng tốt của Chúa đối với ông. Theo ông, những khó khăn do số quan lại gây ra cho ông đều được ngầm tổ chức ngoài sự hiểu biết của Chúa, và ngài mặc nhiên chẳng biết điều gì cả. Nhưng ông Lefebvre, người cho Poivre ở trọ, thì lại có ý kiến khác. “Ông Poivre đã đến gặp Chúa, và Chúa - người đã biết quá rõ rằng lúc này tàu thủy Pháp vẫn chưa nhổ neo, đã ra vẻ ngạc nhiên khi gặp Poivre, đồng thời khẳng định với Poivre sẽ bảo đảm giải quyết nhanh chuyện này. Ngài Poivre thì hẳn tin rằng Chúa là thực tâm, ông không thể tưởng được rằng chính Chúa đã từng ngầm thỏa thuận với lão người Cao Miên, rồi lại gán cho lão này tất cả trò ma mảnh ấy, và trong cơn cùng cực của nổi đau ấy, Chúa không thể cầm được nước mắt, rốt cuộc đã quyết định phải thải hồi tên này đi”.

Đến đây chúng ta hãy để sang một bên chuyện về người lái buôn Pháp, ngài Poivre này, vì chỉ vài ngày sau, ngày 2-1-1750, “nhà vua từ điện nhỏ Thợ Đúc đã quay lại điện lớn”, và kể từ đây ngài Poivre hết còn dịp để bàn về Phủ Dương Xuân.

Dẫu sao vẫn cần chú ý đến một chi tiết: “Chính mang một thói kêu căng hợm hĩnh mà Võ Vương đã rời bỏ những cung điện nhỏ và đơn giản của tổ tiên trước đây để khởi công xây dựng cung điện lớn mà ngài đến giờ vẫn còn ở, cung điện lớn được xây dựng theo khuôn mẫu của Pecquin, và trên những cánh cửa đều được khắc bằng chữ vàng những câu văn chữ Hán, nêu rõ nơi ở của nhà vua ở đây. Một số sách Sử biên niên cung cấp một số câu của Võ Vương, được khắc trên cửa và tường của Điện lớn. Một số câu cũng thấy xuất hiện ở điện Trường Lạc, thuộc khu vực Dương Xuân.

Nhà vua lệnh cho một số quan văn làm một số câu thơ, dùng để khắc lên tường sau này… Trần Thiên Lộc là tác giả của những đoạn thơ sau trong khuôn viên triển lãm thuộc điện Trường Lạc:

“Võ Lậm và những tiên trượng nằm bao quanh đảo Bồng Lai, những khúc nhạc êm đềm của sáo trúc càng dâng nhẹ dần lên quanh ánh trăng đêm, chổ ngự giá của nhà vua bay bổng lên đến tận cùng của cỏi cực nam, đám khói vàng chẳng làm nhạt đi những đám mây trôi lơ lững, theo màu ngũ sắc, trăng đêm kết thành ánh gương soi cho nghìn thu, và sương rơi đọng lại trên lòng bàn tay làm đầy ly rượu vĩnh cửu, đám thị tỳ bao quanh hoàng đế, đang nhận những ân sủng và theo tiếng nhạc mã não chúng tụ lại quanh bờ ao (dinh dưởng ấn) ...”

Tôi mặc nhiên tự hỏi mình có hiểu chăng khúc thơ cầu kỳ ấy, với bao hình ảnh huyền ảo, đám ý tưởng rối bời, có chăng là những cảm tính hoặc giả những giấc mơ của đám thị nữ. Dẫu sao, một làn thơ như vậy đã làm nhà vua hài lòng, ý thơ cũng hợp lẽ với đám khách châu Âu đang sống tại Huế vào lúc này đã kể cho những gì mà chúng tôi nghe. Cố nhiên, đấy là một ông vua tốt về bản chất, nhưng mềm yếu, lười biếng, ham mê sắc dục, mải mê đàn bà, chuộng sự xa hoa và chểnh mảng những điều quốc sự, mặc nhiên chịu cho đám quan tham lam áp đặt và chẳng hề có một chút ý thức gì, thêm nữa, tính cả tin cộng với những nguyên cớ phi lý thường dẫn đến cơn nóng giận. Được trang bị bằng tính chểnh mảng cộng ý thức hoang tưởng cùng cực, nhà vua tưởng tượng cơn bão của phong trào Tây Sơn khả dĩ phế truất kẻ nào kế vị ngài, và cố nhiên xóa bỏ đi triều Nguyễn.

Nơi ở chính của triều đình được Võ Vương sửa sang lại toàn bộ trên một địa điểm mới. Võ Vương hy vọng có thể phá đi những ý đồ đen tối. Với Phủ Dương Xuân cũng nằm trong tư tưởng này, Võ Vương dựng nên một nơi ở mới tại một vị trí do ngài tự chọn, với sự giúp sức của các thầy phong thủy, hoặc ngài sẽ dựng nên một ngôi nhà trên địa điểm một cung điện cũ, cũng có thể ngài chỉ tiến hành một ít sửa chữa nhỏ, làm đẹp cho một công trình có sẵn? Tôi không thể trả lời được câu hỏi này, mặc dù tính khí của Võ Vương, nhất là ý đồ đổi mới, thay đổi mọi điều để tránh khỏi số phận, tất cả điều này có thể cho phép giả định rằng, Phủ Dương Xuân, cũng như nhiều nơi khác, Võ Vương đã phá bỏ tất cả những công trình của tiền bối và dựng nên những công trình mới.

Nhưng có một điều chắc chắn, là những vua nhà Nguyễn từ lâu đã có một nơi ở thứ hai tại khu vực Dương Xuân. Năm 1700, sách Sử niên đã xác định vị trí này với tiêu đề “cũ xưa”. Như vậy, nó đã tồn tại trước thời điểm này. Trong mọi trường hợp, sau đây là một điều cần chú ý về thời kỳ này: “Năm Canh Thìn, tuần trăng thứ 8 (13-9 đến 11-10-1700), người ta tiến hành sửa sang tại cung điện cũ tại Dương Xuân. Đạo quân lính thủy, trong khi đào đất, đã phát hiện ra một con dấu bằng đồng, có những chữ khắc như sau: “Trấn Lỗ tướng quân chi ấn”. Minh Vương rất đỗi vui mừng với phát hiện này, và dân chúng gọi nơi ở này là nơi ở của con dấu đồng”. Dù bản thân tôi đã cố hỏi tìm nhiều lần, tôi vẫn không thể tìm lại được những vết itch nằm trong tên gọi này.

Năm 1698, ngày thứ hai trong tháng 11, một cơn bão lớn đã xảy ra, kèm theo mưa lớn và lụt. Minh Vương “cảm thấy nguy kịch khi đang ngụ trong cung, đã tìm chốn an toàn trên một ngọn núi nhỏ”. Ngọn núi này phải chăng là nơi ở cũ tại Dương Xuân, nơi Võ Vương sau đó đã đến ở trong những tháng mùa đông, trong một cung điện, mà theo lời của Poivre “được xây trên một mô đất” (élévation). Và phải chăng chính lời báo động trong năm 1698 đã khiến Minh Vương có ý nghĩ rằng phải xây dựng lại Điện Dương Xuân vào năm 1700 ? Đây chỉ là một giả thiết, nhưng cũng có thể là chính xác, vì chúng ta không thể tìm được một nơi ở khác của nhà Nguyễn trên những khu vực cao quanh thành Huế, và một nhân vật nọ, khi rời khỏi cung điện trong thời điểm nguy kịch, đã không đến vùng núi, mà chỉ trú ngụ tại những nơi được những vị tiền bối xây dựng từ trước. Và dưới thời Minh Vương, Phủ Dương Xuân đã là một cung điện xưa cũ rồi.

Theo nhiều tài liệu, khi ngài La Motte-Lambert đến Huế vào tháng 8-1675, ngài đã có một lần tiếp xúc với Hiền Vương tại “một căn nhà ở đồng quê”. Phải chăng đấy là Dương Xuân, “nơi ở cũ” của nhà Nguyễn ? Nhưng tôi không dám quả quyết thế. Có thể vào thời kỳ này, có tồn tại một nơi ở thứ hai tại An Cựu, một nơi ở khác tại Phủ Cam và mặc khác, điều chắc chắn duy nhất chỉ là Linh mục đã trực tiếp gặp Hiền Vương mà thôi.

Vậy thì chúng ta hãy rời bỏ Phủ Dương Xuân này, và sẽ hẹn trở lại một khi tìm được một tư liệu nào mới. 

Bản dịch của thầy Lê Khắc Phò

Các bài viết khác:
Vietravel
Khách sạn Midtown
Phú Đạt Gia