HÌNH TƯỢNG VUA QUANG TRUNG QUA THƠ VĂN NGÔ THÌ NHẬM

Dẫn đề: Ngô Thì Nhậm là con người đặc biệt, vận động theo sự chuyển biến của lịch sử đất nước, dân tộc trong thế kỉ XVIII. Ông đóng góp hơn 600 bài thơ, 15 tác phẩm đủ thể loại (phú, chiếu, biểu, chính luận, ngoại giao, thơ) cho nền văn học Việt Nam. Tuy có một cuộc đời đầy sóng gió nhưng tài năng và tâm hồn Ngô Thì Nhậm đã thay đổi, thăng hoa khi ông gặp được người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung. Cũng chính vì vậy, Ngô Thì Nhậm có một tấm lòng đặc biệt với vị minh chúa. Qua thơ văn của ông, tài năng, nhân cách và hình tượng của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung được khắc họa sắc nét.

Tượng thờ Ngô Thì Nhậm trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt

(Bảo tàng Quang Trung, Bình Định)

1. Những điều đặc biệt gắn với Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu là Ðạt Hiên, sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (25-10-1746) tại làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Sinh ra và lớn lên trong một dòng họ nổi tiếng cử nghiệp, khoa hoạn lẫn văn chương nên nhờ tư chất thông minh, Ngô Thì Nhậm thành công rất sớm. Mười sáu tuổi đã viết cuốn “Nhị thập tứ sử toát yếu”. Mười chín tuổi đỗ đầu kỳ thi hương. Hai mươi tuổi, viết “Tứ gia thuyết phả”. Hai mươi ba tuổi, đỗ khoa sĩ vọng, được bổ Hiến sát phó sứ Hải Dương. Hai mươi sáu tuổi, dự khảo thí ở Quốc Tử Giám, đỗ hạng ưu đồng thời hoàn thành “Hải đông chí lược”, một tập địa phương chí của Hải Dương. Hai mươi chín tuổi, đỗ thứ năm hàng tiến sĩ tam giáp, cùng khoa với Phan Huy Ích. Ðạt được học vị cao nhất của thang giá trị học vấn thời đó, Ngô Thì Nhậm liên tiếp được giao cho những chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Lê, chúa Trịnh.

Tuy nhiên, ông cũng gặp nhiều biến cố. Sau vụ án năm Canh Tý (1780), ông lui về ở ẩn, phần vì không tham gia nổi vào những trò chơi vương quyền đặt trên lý tưởng yêu nước, yêu dân bấy lâu ông vẫn hằng tin tưởng; phần vì tránh tiếng với người đời. Quan trọng hơn, lý tưởng trung hiếu, mong được phò tá minh chúa “không cần phải thắng được dân mà chỉ cần làm thế nào để yên được dân[1] đổ vỡ. Những tưởng lịch sử mất dấu tên ông, nhưng chính những thăng trầm đó đã tạo một bước ngoặt cho cuộc đời ông khi được gặp người anh hùng Nguyễn Huệ. Danh tiếng về Nguyễn Huệ ông đã từng nghe, từng chứng kiến qua hai lần mang quân ra Bắc, do vậy dù còn nhiều trăn trở nhưng ông vẫn tận rõ phong thái “Đạo suốt tam tài, đức cao muôn thưở [2] của Nguyễn Huệ. Ông nhận ra rằng, chính con người này mới là vị minh chúa mà ông mong đợi bấy lâu, “buổi “truân ban” gặp hồi mạt vận, tượng “kiền phi” được thấy thánh nhân[3]. Ngô Thì Nhậm đã có một sự lựa chọn đặc biệt: là người đầu tiên trong số cựu thần phủ chúa đến trình diện ở bộ Lễ. Có thể lúc đó, ông chưa chắc đã dứt khoát theo Nguyễn Huệ, chỉ mong có cơ hội thực hiện chí tang bồng của mình. Nhưng cái may của Ngô Thì Nhậm, cũng là cái may của lịch sử, đó là ông được Nguyễn Huệ trọng dụng, “nào ngờ đâu đến ngày tái thế, lại được coi chung một lòng nhân[4].

Nguyễn Huệ biết hết những khó khăn, biến động Ngô Thì Nhậm đã trải qua. Người anh hùng áo vải cờ đào đã nói: Đó là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng” [5]. Sự trân trọng trí thức “thuộc dòng dõi văn học Bắc Hà” và những quyết định táo bạo sau này (khi ban ngay chức tước xứng đáng cho Ngô Thì Nhậm, cho đứng đầu hết thảy quan lại cựu triều) đã gây sửng sốt cho nhiều người. Nhưng trên hết, chính quyết định ấy đã góp phần tạo nên mối song hành Quang Trung – Ngô Thì Nhậm đặc biệt trong lịch sử mà có lẽ ngay chính bản thân Nguyễn Huệ cũng không nghĩ tới.

Được cảm nhận sự tin cậy, trọng dụng, được thỏa sức vùng vẫy, Ngô Thì Nhậm đã dốc trọn nhiệt tình, tài năng của mình dưới triều Tây Sơn. Sự lựa chọn đó đã đặt Ngô Thì Nhậm vào một thế đứng đặc biệt, đối ngược lại truyền thống gia tộc Ngô Thì vốn trung thành với vua Lê chúa Trịnh bao đời đồng thời nó cũng khiến ông trở nên xa cách với các bạn đồng môn. Nhiều văn sĩ Bắc Hà không tiếc lời dè bĩu, dèm pha, phỉ báng Ngô Thì Nhậm. Song Ngô Thì Nhậm đã khẳng định rằng: “Dù kẻ khác có cái ý “ma, lợn”, tôi vẫn cứ vững tâm, huống chi loài “ma, lợn” vô hình, thì nơi đâu mà đem cái nhìn của quẻ Khuê để nhìn nó. Đó là điều bậc đạt nhân nên tự thấu suốt[6]. Từ đó, cuộc bút chiến giữa ông với các đại diện của sĩ phu Bắc Hà lúc bấy giờ, như Trần Danh Ấn, Trần Bá Lãm, Nguyễn Nha…và cả những người trong gia tộc Ngô Thì cương quyết chống Tây Sơn đã diễn ra mạnh mẽ. Cũng nhờ cuộc bút chiến, đi kèm với tài “dùng người rộng rãi, không phân mới cũ thân sơ”[7], chính sách đoàn kết rộng rãi, cô lập và phân hóa cao độ kẻ địch của Nguyễn Huệ - Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã thuyết phục được Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn…lần lượt ra phục vụ cho triều Tây Sơn. Điều này có tác dụng không nhỏ vào việc củng cố an ninh, chính trị ở Bắc Hà, vùng đất vốn là hậu phương xung yếu của tập đoàn Lê – Trịnh. Càng quan trọng hơn, sự lựa chọn của ông đã được chứng minh là đúng đắn. Triều đại Tây Sơn, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ - Quang Trung, đã lần lượt tiêu diệt cả hai tập đoàn phong kiến thống trị là họ Nguyễn ở Đàng Trong và chúa Trịnh (vua Lê, thực chất chỉ là bù nhìn) ở Đàng Ngoài, thực hiện được công cuộc kết nối vĩ đại thống nhất đất nước sau hơn 150 năm phân tranh. Gắn liền với triều đại Tây Sơn còn có hai chiến thắng cực kì hiển hách: đánh tan quân xâm lược Xiêm La (trận Rạch Gầm – Xoài Mút) năm 1784 và đại thắng quân Mãn Thanh tại Thăng Long năm 1789.

Có thể khẳng định, Ngô Thì Nhậm đã làm được những điều đặc biệt. Trên đường quan lộ, ông được phong làm Thị lang Đại học sĩ (Thị lang Bộ Lại), Thượng thư Bộ Binh, chuyên lo việc giấy tờ trong quan hệ ngoại giao với nhà Thanh. Ngô Thì Nhậm có hai lần làm chánh sứ sang giao thiệp với nhà Thanh. Ông là một nhà chiến lược, nhà ngoại giao tài giỏi. Dưới danh nghĩa vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã thảo những thư từ gửi hoàng đế nhà Thanh, lời lẽ vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng, nhằm kết thúc chiến tranh giữa hai nước, ngăn chặn ý đồ gây chiến phục thù của cánh hiếu chiến trong triều Mãn Thanh (sau chiến thắng Đống Đa 1789), chuyển quan hệ ngoại giao hai nước từ đối đầu sang hoà hảo, góp phần làm cho triều Quang Trung giữ được nền độc lập, tự chủ, bảo đảm an ninh đối ngoại.

Trong sự nghiệp cầm bút, ông đã có viết hơn 600 bài thơ, để lại hơn 15 tác phẩm xuất sắc về sử, văn thơ, triết học, ngoại giao với nhiều thể loại tiêu biểu như “Hải Dương chí lược”, “Hy Doãn thi văn tập”, “Hoàng Lê nhất thống chí”, “Kim mã hành dư”, “Yên đài thu vịnh”, “Cúc hoa thi trận”, “Hàn các anh hoa”, “Bang giao hảo thoại”, “Xuân Thu quản kiến”, “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh”.

2. Hình tượng vua Quang Trung qua thơ văn Ngô Thì Nhậm

Thế kỷ XVIII là một thế kỷ đầy biến động, đất nước đứng trước cảnh bế tắc. Cảnh phân tranh Đàng Ngoài - Đàng Trong với cuộc chiến liên miên, nhân dân lầm than, cơ cực. Ở Đàng Ngoài, vua Lê chỉ làm bù nhìn, mọi quyền lực tập trung vào tay chúa Trịnh chuyên quyền. Triều đình thối nát, quan lại ăn chơi, xã hội rối ren, dân tình rên siết. Đàng Trong cũng đối diện những biến động khó khăn. Tình hình đó khiến các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra, kéo dài. Nhưng các phong trào ấy đều nhanh chóng thất bại. Chỉ đến khi phong trào Tây Sơn bùng nổ, lịch sử Việt Nam bước sang một chương mới. Đó là nền tảng cho một triều đại mới ra đời với người lãnh tụ nổi bật nhất, anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ, sau này trở thành vị minh quân lẫy lừng trong lịch sử nước nhà. Dưới ngòi bút của mình, Ngô Thì Nhậm đã vẽ nên một vị minh quân Quang Trung đầy tài năng trong quân sự, nhân cách trong trị nước, dùng người và sự đau xót tột cùng khi vị chân chúa ông phò tá đột ngột qua đời.

2.1 Người anh hùng áo vải tất nhiên được dựng chân dung qua rất nhiều lời thơ văn của đông đảo nhân sĩ. Từ người gần gũi nhất như người vợ yêu – Hoàng hậu Ngọc Hân:

Mà nay áo vải cờ đào

Giúp dân dựng nước biết bao công trình!...

Mà nay lượng cả, ơn sâu

Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.

Công dường ấy mà nhân dường ấy,

Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công!” (Ai tư vãn).

Đến các quan lại, các sĩ phu, và cả những người ở phía đối diện. Tuy nhiên, có thể khẳng định, không có một tác giả nào có những câu thơ, dòng văn nhiều và sống động về vị anh hùng dân tộc Việt Nam như trong thơ văn Ngô Thì Nhậm. Ngay từ thưở đầu được “tiếp gần đức ân sủng”, Ngô Thì Nhậm đã miêu tả vị anh hùng ấy là người “thông minh trời phú, thánh kính ngày tăng, lồng lộng cơ đồ rạng rỡ/ Mênh mông vương đạo mở ra…” [8]. Với Ngô Thì Nhậm, chính tính cách tự tôn dân tộc của vua Quang Trung đã chiếm trọn lòng ngưỡng phục của ông:

Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chích luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Đánh cho nó sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ[9].

2.2 Bên cạnh nhân cách lớn lao thì tài dùng người của Quang Trung cũng là điểm nhấn thu phục nhân tâm không chỉ Ngô Thì Nhậm mà còn bao người khác:

Dùng người rộng rãi, không phân mới cũ thân sơ.

Khiến cho bọn lười biếng tầm thường, cũng được thấy thanh minh thịnh sự.[10] .

Rõ ràng, là một bậc quốc sĩ như Ngô Thì Nhậm, không có hạnh phúc nào hơn là được phụng sự cho một “Sao Bắc thần yên vị, ngôi Nam diện sáng ngời[11] để lập nên đại sự nghiệp, làm vẻ vang cho tổ quốc.

2.3 Ngoài ra với Ngô Thì Nhậm tài năng quân sự của Quang Trung cũng thật đáng ngưỡng mộ. Trong Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái mô tả hình ảnh vua Quang Trung hòa trong đoàn quân Tây Sơn quyết chiến, quyết thắng, vô cùng oai phong, lẫm liệt: “Vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi... Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn…”[12]. Với Ngô Thì Nhậm, hình ảnh ấy được tôn lên một tầm cao mới, một con người “nắm được thời thế, dấy binh dẹp loạn, cứu trăm họ trong cảnh gian nan, thống nhất non sông, công trạng hơn hẳn đời trước[13]. Một con người tuổi trẻ đã tham gia khởi nghĩa Tây Sơn diệt Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân xâm lược Xiêm, tiến ra Bắc Hà diệt Trịnh, lật đổ nhà Lê, quét sạch 29 vạn quân Mãn Thanh. Tài năng ấy, đóng góp ấy cho dân tộc, cho lịch sử là vô cùng to lớn.

2.4 Bởi vậy, khi được vinh dự thảo Chiếu lên ngôi và chấp bút hàng loạt tờ chiếu sau này về những công việc quan trọng buổi đầu của triều đại mới, bằng ngòi bút đa lực của mình, Ngô Thì Nhậm đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn con người vua Quang Trung. Đọc Chiếu lên ngôi cảm nhận được khí phách anh hùng, tầm nhìn xa trông rộng, sự lỗi lạc quảng đại và đạo đức thanh cao, tấm lòng vì nước vì dân của vị vua đã sáng lập ra một triều đại mới đầy hào hùng bao nhiêu ta mới thấy hết sự đồng điệu, hiểu rõ tâm trạng về vị minh quân của Ngô Thì Nhậm bấy nhiêu:

Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không có một tấc đất, vốn không có chí làm vua. Chỉ vì lòng người chán ghét loạn lạc, mong có vị minh chúa để cứu đời yên dân. Cho nên tập hợp nghĩa quan, xông pha chông gai, phá núi mở rừng, giúp đỡ Hoàng đại huynh dong ruổi binh mã, gây dựng nước ở cõi tây, dẹp Tiêm La, Cao Miên ở phía Nam, rồi hạ thành Phú Xuân, lấy thành Thăng Long. Bản ý chỉ muốn quét trừ loạn lạc, cứu dân trong chốn nước lửa, rồi trả nước cho họ Lê, trả đất cho đại huynh, ung dung áo dấm hài thêu, ngắm cảnh yên vui ở hai cõi đất mà thôi. Nhưng việc đời dời đổi, rốt cuộc trẫm không được như chí nguyện…

…Trẫm nghĩ: nghiệp lớn rất trọng, ngôi trời khó khăn, trẫm thật lòng không đương nổi. Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình trẫm. Đó là ý trời, hả phải việc người? Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, không thể cố chấp nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung nguyên niên.

Hỡi trăm họ muôn dân các người! “Lời nói lớn lao của ngôi hoàng cực là lời giáo huấn phải thi hành”. Nhân, nghĩa, trung, chính là đầu mối lớn lao của đạo làm người[14].

Dưới thời phong kiến yếu tố chính danh của một vị hoàng đế luôn được coi trọng, trong Chiếu lên ngôi của mình vua Quang Trung thể hiện rõ mộng ước “cứu đời yên dân” chứ không có chí làm vua. Song là ý trời thì phải “ứng mệnh trời, thuận lòng người”. Và dù có ở ngôi cao thì điều cốt yếu chính là “Nhân, nghĩa, trung, chính là đầu mối lớn lao của đạo làm người[15]. Ngô Thì Nhậm giúp chúng ta thấy rõ hơn điều đó khi khẳng định vua Quang Trung chính là:

Sao Bắc thần yên vị, ba viên soi Hà Hán huy hoàng.

Ngôi Nam diện sáng ngơì, tám cõi ngóng áo xiêm thịnh trị.

…Hoàng đế bệ hạ:

Trời sinh khí sáng thần giúp tài cao.

Một áo nhung gây dựng non sông là em quý của anh hùng Tây thổ.

Ba thước kiếm quyết trừ loạn lạc, là chân nhân sáng suốt cõi trời nam.

…Công đức thực tốt đều hai mặt, nên trời người thuận cả một chiều[16].

Mà còn là bậc:

Thánh nhân cân nhắc sự nghe theo, khiêm nhường nêu cao đức lớn[17].

Điều đó cho thấy Ngô Thì Nhậm đã thật sự hiểu, đánh giá đúng tầm vĩ đại của Quang Trung trong lịch sử. Ông không chỉ thể hiện lòng sùng bái của vị thần tử với nhà vua, mà còn là sự tôn kính của “tôi hiền” với “vua sáng”.

2.5 Nhắc đến tài năng trị nước của vua Quang Trung, Ngô Thì Nhậm thể hiện điều qua một loạt tờ chiếu tiếp sau về các vấn đề quan trọng của đất nước. Chiếu khuyến nông, hướng dân chăm nghề gốc, thể hiện lòng mong mỏi của vị vua đối với nghề gốc của dân, của nước: “Từ trải qua loạn lạc đến nay, binh hỏa liên miên lại thêm đói kém, nhân dân lưu tán, ruộng đất bỏ hoang. Thực số đinh và điền, lại chẳng còn được bốn phần mười khi trước”[18]. Vì vậy, một mặt cần phải khẩn trương khôi phục lại nền kinh tế, để làm cho dân giàu nhưng cũng phải vỗ về sức dân bằng những lời hiệu triệu: “Hỡi các thần dân, các người phải trông lên để theo đức ý của trẫm, về nơi quê quán, chăm sóc ruộng vườn”[19].

Đó là Chiếu về việc lập nhà học vì:

Dựng nước lấy dạy học làm đầu, cầu trị lấy nhân tài làm gấp. Trước đây bốn phương nhiều việc phải phòng bị, việc  học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngày càng thiếu thốn.

Ôi! Hết loạn trị là lẽ tuần hoàn, tiếp sau hồi loạn, lại càng cần phát triển sửa sang; lập giáo hóa, đặt khoa cử là quy mô lớn để chuyển loạn thành trị.

Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà nho, lưu tâm yêu mến kẽ sĩ, muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia.

…Việc này quan hệ đến đại điển buổi ban đầu, phải nên mài dũa hưng khởi chí khí, giữ lòng trong sach chờ ơn, cùng lên con đường rộng rãi, cùng giúp chính trị sáng trong[20].

Chiếu cầu hiền là lời mong mỏi của vị minh chúa vốn lo nghĩ “Đương khi trời còn thảo muội, là lúc quân tử thi thố kinh luân, nay buổi đầu đại định, mọi việc còn đương mới mẻ. Mối giềng triều đình còn nhiều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan. Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chắm run sợ, mỗi ngày một việc lo toan”. Chỉ mong “ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều được phép dâng thư bày tỏ công việc. Lời có thể dùng thì đặc cách bổ dụng, lời không dùng được thì để đấy, chứ không bắt tội vu khoát. Những người có tài nghệ gì có thể dùng cho đời, cho các quan văn quan vũ đều được tiến cử; lại cho dẫn đến yết kiến, tùy tài bổ dụng. Hoặc có người từ trước đến nay giấu tài ẩn tiếng, không ai biết đến, cũng cho phép được dâng thư tự cử, chớ ngại thế là “đem ngọc bán rao”… Những ai tài đức, nên đều gắng lên, để được rỡ ràng chốn vương đình, một lòng cung kính để cùng hưởng phúc tôn vinh”[21].

2.6 Không chỉ khắc họa chính sách trị nước sáng suốt, Ngô Thì Nhậm còn nói lên được tấm lòng hiếu sinh, coi bốn bể như một nhà của vua Quang Trung. Với người dân:

Bậc thánh chúa vừa động lòng thương binh lính,

Kẻ ngu thần may gặp cơ hội thờ bề trên.

Từ nay đường vận tải không còn khó khăn,

Lòng người muốn thọ, nhờ đó không nguy.[22]

Trong Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa[23] thể hiện tinh thần nhân đạo, bao dung, che chở nhưng cũng cứng rắn của triều đại Tây Sơn, đất nước Việt Nam. Nhân đạo chỉ vì “đức hiếu sinh của thượng đế, nên ta bao dung che chở, tha chết cho các người”[24], nghiêm khắc để cảnh cáo lũ giặc biển người Trung Hoa lúc bấy giờ phải sớm đầu hàng, bởi “Trẫm từ khi khởi nghĩa, tung hoành bốn phương, hễ đến là yên, không đâu không phục”[25]. Đó là tư thế bậc anh hùng vừa lo cho dân cho nước, vừa nghiêm trị với kẻ thù, kẻ ác:

Đem đội quân vô địch một đánh mười, nhà nhà ngóng đợi;

Nổi cơn giận ba thước gươm an đinh, phụ lão xin lưu.[26]

2.7 Không chỉ thể hiện tư tưởng, đường lối trị nước, nhân cách con người vua Quang Trung, thơ văn Ngô Thì Nhậm còn cho ta thấy được những chi tiết giản dị đời thường về người anh hùng dân tộc áo vải cờ đào. Đó là lúc nhà vua cùng quần thần chăm bàn việc nước từ lúc sáng sớm mờ sương:

Canh năm, chưa vén hẳn màn sương,

Eo óc gà vang cung Thượng Dương.

Văn võ vừa yên hàng áo gấm,

Ngai rồng đã sắp đội gươm vàng.

Phép hay giữ nước: truyền quân mệnh,

Kế lớn ngoài biên: đọc cáo chương. [27]

Hay khi “vua ôm lò ngự hương, mặt rồng vui vẻ, cho các bầy tôi ngồi, mời uống trà, thung dung hỏi việc nước”[28].

…Thung dung tiếng vua hỏi han việc nước,

Hổ thẹn tài mọn, ít dâng lời bàn.[29]

Có dịp nhà vua triệu ông vào trướng ngự, sai đọc thơ ứng chế. Nhà vua nhấc lấy kính đang đeo ở mắt Ngô Thì Nhậm để đeo thử, rồi đọc đi đọc lại bài thơ… Những khoảng khắc đó trở nên thật ấm áp, gần gũi giữa vua tôi:

Kính mắt đã từng được quân vương xem tới

Ý thánh thượng ân cần thương kẻ lão thần.

Rất vui vẻ được “mắt hai trong” lấy để nhìn tỏ,

Càng vinh quang được “mắt bốn cõi” dùng để xem văn.[30]

Tôi hiền gặp được chúa thánh minh”, vậy nên Ngô Thì Nhậm vô cùng hứng khởi mang hết tài kinh bang tế thế ra thi thố, bất chấp muôn vàn nhọc nhằn gian khó, và ông đã tạo ra một gia tài thơ văn đồ sộ trong chính những ngày tháng hào hùng nhất ấy của cuộc đời mình.

1.8 Kể cả khi mất đi, Quang Trung vẫn được nhắc đến qua những dòng thơ đau đáu của Ngô Thì Nhậm, tuy đau buồn mà vẫn kiêu hùng:

Đăng chúc tinh huỳnh thiên bất dạ,

Vĩnh Phúc thành trung nhân vật hoa.

Lâm lưu lân tập xưởng đình tạ

Ngũ dạ thái kết quán tân đường

Sứ thần hàm tuất từ bất dương

Sảnh tào, tòng sự các gia ngạnh,

Cá cá bất vong ngô tiền vương.

(Đèn đuốc sáng choang, ban đêm như ban ngày,

Trong thành Vĩnh Phúc nhân vật phồn hoa,

Lâu đàu ven sông san sát như vẩy cá

Nơi nhà tiếp khách chăng đèn kết hoa suốt đêm

Sứ thần đang có nỗi đau thương từ chối không dự cuộc vui

Quan chức và người tùy tùng đều ôm trán

Ai ai cũng không quên tiền vương ta)[31]

Trong bài Kính viếng lăng Đan Dương (lăng Quang Trung), Ngô Thì Nhậm ca ngợi: 

”…Võ công oanh liệt gây nền vững,

 Chính sách tài tình để phép chung.

Kính tưởng hồn thơm, kề bóng ngự,

Giữ gìn nghiệp lớn, đỡ vầng đông.”[32]

Vua Quang Trung mất đi cũng đã lưu lại nỗi tiếc thương cho cả triều đình nhà Thanh – triều đại đã từng thua trận trước đoàn quân do vị anh hùng lãnh đạo nhưng sức nặng của bài thơ Cảm hoài vẫn là tình cảm sâu đậm, nỗi lòng “ngày ba thu ngóng” của Ngô Thì Nhậm hướng về vị minh quân:

Thiên vương lễ nghĩa nêu thiên hạ,

Cống nạp, vua ta giữ lệ thường.

Đã hạ chiếu rồng chia trắc ẩn,

Lại cho xe xứ gấp hồi hương.

Đức cao rộng sẻ niềm lo  lắng,

Tình lớn vời thương nỗi tóc tang.

Ngửa đọc chiếu thư càng cảm kích,

Ngày ba thu ngóng điện Đan Dương…[33]

Trong bài thơ này Ngô Thì Nhậm chú rõ: “Đi đến huyện Thiên Giang, triều đình (nhà Thanh) gửi chỉ dụ đến: Tuần phủ Quảng Tây giục cống sứ, hạn đến trước ngày rằm tháng năm, kịp vào chầu trước khi loan giá đi nghỉ ở hành cung Nhiệt Hà…” Lại phụng chỉ: “Cống thần ngậm đau thương mà đến, các tỉnh hội mà sứ bộ đi qua đều đình chỉ yến tiệc vui chơi”. Ngửa thấy Đại hoàng đế thương xót chí tình. Vì Tiên hoàng ta, các vị thân vương nhà Thanh tăng thêm điển lễ thương xót. Tuy bồi thần đã vào nội địa, để cho được yên lặng, để tỏ long trọng. Đó là lấy văn hiến lễ nghĩa mà đối đãi với nước ta, không phải như với các nước tầm thường khác. Cầm đọc chỉ thị cảm kích gấp bội… Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y Tiên hoàng ta, quan san xa cách lâu ngày không được trông coi, trông vời viên lăng không ngăn được tấm lòng: một ngày bằng ba thu”[34]. Đáng chú ý, chi tiết “Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y Tiên hoàng ta” như là một mật mã, chìa khóa mà Ngô Thì Nhậm đã “cài” vào những dòng cảm xúc của ông về nơi an nghỉ của vua Quang Trung. Từ chi tiết ấy và niềm tin tâm linh đã bắt đầu cho quá trình ba mươi năm dài tìm kiếm, nghiên cứu về cung điện, lăng mộ vua Quang Trung của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân giữa bộn bề những ý kiến trái chiều[35].

Quang Trung là vị vua không thể quên được trong lòng của người dân Việt Nam, điều đó càng được minh chứng rõ nét trong thơ văn Ngô Thì Nhậm. Có đọc thơ ta mới nghe được tiếng lòng của ông về những ngày quá khứ huy hoàng, đầy tiếng quân reo hò, tiếng voi gầm đạn nổ. Tất cả là tiếng lòng vọng về từ quá khứ đẹp đẽ của dân tộc với hình ảnh chủ đạo là vị anh hùng dân tộc áo vải cờ đào đã dựng lên nghiệp lớn, làm rạng danh non sông đất nước:

Bách vạn tỳ hưu nhất há san

Kiều khôn nang quát chuyển tình gian.

Phá điền thiên tử uy phương xướng,

Lạc mộc quân vương đảm diệc tàn

Man vị thịnh cường thu thập dị

Na tri trá lực bả trì nan.

Hưng vong đáo để quan nhân sự,

Thán tích không kinh huyết lệ sàn

(Trăm vạn quần hùng một khi xuống núi,

Túi càn khôn chuyển biến trong chớp mắt

Ông vua “phá ruộng” oai vừa đấy,

Đã làm cho vị quân vương “cây đổ” sợ mất mật

Chớ bảo lớn mạnh lấn chiếm nước người dễ dàng,

Biết đâu vì sức mạnh gian trá khó nắm giữ;

Thịnh suy rốt cuộc cũng bởi người

Luống kinh sợ than tiếc lệ máu đầm đìa[36]

Rõ ràng, phải có “thần giao cách cảm” Ngô Thì Nhậm mới chuyển tải được tinh thần, con người, sự nghiệp của vua Quang Trung qua ngòi bút của ông.

3. Kết luận

Trong cuộc đời mình, con người có nhiều sự lựa chọn. Có những lựa chọn chỉ ảnh hưởng đến bản thân, nhưng có những lựa chọn lại góp phần thay đổi cả cuộc đời bao người. Cuộc hội ngộ Quang Trung – Ngô Thì Nhậm thật sự đã tạo một bước ngoặt cho lịch sử Việt Nam và lịch sử văn học Việt Nam.

Có thể nói, Quang Trung đã đánh giá tài năng và trân trọng con người Ngô Thì Nhậm: “Ngô Thì Nhậm đây là người do ta gây dựng lại”, “vừa là bầy tôi, vừa là khách của ta” tạo cơ hội cho tài năng Ngô Thì Nhậm được vùng vẫy. Ngược lại, cảm ơn “tri ngộ” của Quang Trung, Ngô Thì Nhậm ra sức phục vụ triều Tây Sơn, có những đóng góp rất đáng kể, cả về chính trị, ngoại giao, quân sự, và văn hóa. Và trên hết, chính “sự tri ngộ” ấy đã góp phần giúp thế hệ sau này hiểu hơn về Nguyễn Huệ - Quang Trung. Qua những sáng tác thơ văn của mình, Ngô Thì Nhậm đã bổ khuyết cho lịch sử những thiếu hụt về chính người anh hùng Nguyễn Huệ - Quang Trung. Hình ảnh vua Quang Trung được thể hiện rất đa dạng: khi thì hiện lên như một con người cụ thể, sống động, khi thì cao vợi như tượng trưng cho sức mạnh và chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam; lúc là một nhà chiến lược tài tình, văn võ song toàn, có cái nhìn toàn cục cả hiện tại và thấu suốt tương lai; khi lại là con người đức độ, có tài tổ chức, tài đánh trận, tài dùng người, thu người… Nhân vật Quang Trung vốn đã nổi bật qua nhiều sáng tác thơ văn của nhiều thi sĩ, sĩ phu thời đại ấy, lại càng sinh động trong những dòng văn thơ của Ngô Thì Nhậm, một thần tử không chỉ chứng kiến, trải nghiệm và thấu hiểu, để từ đó qua những miêu tả của mình, hiện thực hóa, hình tượng hóa một chân dung rõ nét về người anh hùng dân tộc đại diện cho vẻ đẹp và sức mạnh Việt Nam.

Năm năm, nghiệp lớn chốc hoàn thành,

Bậc thánh minh đà rụng tướng tinh!

Dưới giúp đời sau, truyền chính trị,

Trên so trời thẳm, dậy uy thanh.

Nhân cao, nghĩa cả: còn Lê miếu

Lượng rộng, ơn dầy: thả Mãn-binh

Ngôi báu dài lâu nhờ đức lớn,

Sơn lăng bền vững rạng tinh linh[37].

 

                                                                                         Huế, tháng 10 năm 2016

 Đặng Vinh Dự - Dương Thị Hải Vân

 


[1] Quốc sử quán triều Lê: Hậu Lê thời sử kỷ lược (chữ Hán), Thư viện Sử học, HV, 119. Bản dịch của Đỗ Mộng Khương, Bài sách ngăn chặn trộm cướp, tr.145.

[2] Biểu mừng xa giá ra Bắc thành, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), Ngô Thì Nhậm – tác phẩm, tập I, Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn học, tr.200.

[3] Biểu tạ của các quan văn võ cũ triều Lê. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.184.

[4] Biểu tạ của các quan văn võ cũ triều Lê. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.185.

[5] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nguyến Đức Vân, Kiều Thu Hoạch dịch, chú thích, Trần Nghĩa giới thiệu, Nhà xuất bản Văn học, 2005, tr.289.

[6] Cao Xuân Huy – Thạch Can (Cb) (1979), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập II, tr. 204

[7] Biểu tạ của các quan văn võ cũ triều Lê. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I,  tr.185.

[8] Biểu tạ của các quan văn võ cũ triều Lê. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I,  tr.185.

[9] Hịch ra trận của vua Quang Trung, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.120.

[10] Biểu tạ của các quan văn võ cũ triều Lê. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I,  tr.185.

[11] Tờ biểu suy tôn lần thứ ba, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I,  tr.169.

[12] Ngô Gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr.359-360.

[13] Tờ biểu suy tôn lần thứ hai. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I,  tr.167.

[14] Chiếu lên ngôi. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.172-173.

[15] Chiếu lên ngôi. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.173.

[16] Tờ biểu suy tôn lần thứ ba. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.169 - 170.

[17] Tờ biểu suy tôn lần thứ ba. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.170.

[18] Tờ chiếu khuyến nông. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.178.

[19] Tờ chiếu khuyến nông. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.179.

[20] Tờ chiếu về việc lập nhà học. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.180-181.

[21] Tờ chiếu cầu hiền. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.182-183.

[22] Phụng chỉ trùng khai thiên uy cảng, cung ký. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), Ngô Thì Nhậm – Tác phẩm, tập II, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và Nxb Văn học, tr.261 - 262.

[23] Tờ chiếu phân phối hàng binh người nội địa. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.190.

[24] Tờ chiếu phân phối hàng binh người nội địa. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.190.

[25] Chiếu chiêu dụ giặc Tàu ô (bài 1). Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.191.

[26] Tờ biểu của đình thần văn võ xin Quang Trung ngự giá ra Thăng Long, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập I, tr.195.

[27] Tảo triều Trung Hòa điện tứ nhập nội thị độc chiến thủ tấu nghi, cung ký, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II, tr.259 – 260.

[28] Khâm thị ngự tiền phụng tứ trà, cung ký,  Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II, tr.267

[29] Khâm thị ngự tiền phụng tứ trà, cung ký,  Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II, tr.267.

[30] Phụng thì ngự doanh khâm ngoạn nhãn kính, cung ký, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II, tr.270.

[31] Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.120.

[32]  Khâm vãn Đan Dương lăng. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II, tr.247.

[33]  Cảm hoài, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II, tr. 371.

[34] Cảm hoài, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II, tr. 370.

[35] Từ chi tiết trong thơ của Ngô Thì Nhậm bước đầu chứng minh những giả thuyết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân là có cơ sở qua kết quả trong lần đào thám sát khảo cổ tìm dấu vết lăng mộ Hoàng đế Quang Trung do Viện khảo cổ, Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế, Khoa Sử trường Đại học Khoa học Huế bắt đầu từ ngày 6.10.2016. Xem thêm các tin tức trên các báo dantri.com.vn; Tuổi trẻ, vnexpress.net,… từ ngày 6.10.2016 đến 15.10.2016.

[36] Hoài cựu, Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên và khảo luận) (2001), tlđd, tập I, tr.121.

[37] Tòng giá bái tảo Đan Lăng, cung ký. Dẫn theo Mai Quốc Liên (chủ biên) (2001), tlđd, tập II,  tr.275.

 

Các bài viết khác:
Vietravel
Khách sạn Midtown
Phú Đạt Gia